Công cuộc khoan hố sâu nhất hành tinh

Nhiều công ty trên thế giới đang chạy đua phát triển công nghệ để khoan những hố sâu hơn 10 km nhằm khai thác năng lượng địa nhiệt.

Quaise Energy sẽ tiến tới thử nghiệm thực địa công nghệ khoan sâu bằng chùm sóng milimet vào đầu năm 2025. Ảnh: Quaise Energy

Hiện nay, chỉ có 32 nước trên thế giới có nhà máy điện địa nhiệt đang hoạt động. Nhưng không phải mọi nước đều may mắn như Iceland, nơi nguồn dự trữ nước nóng ở nhiệt độ khoảng 120 – 240 độ C có thể tiếp cận dễ dàng gần mặt đất. Một lý do điện địa nhiệt không phổ biến là chi phí đầu tư ban đầu cao để khai thác năng lượng đó. Để nhiều khu vực khác trên thế giới có thể sử dụng điện địa nhiệt, cần khoan sâu hơn để tiếp cận nhiệt độ cần thiết nhằm sản xuất điện hoặc cung cấp nhiệt lượng quy mô lớn cho khu vực lân cận, theo National Geographic.

Ở phần lớn các nơi trên Trái Đất, nhiệt độ tăng 25 – 30 độ C khi xuống sâu hơn trung bình mỗi km. Ví dụ, tại Anh, nhiệt độ gần mặt đất ở độ sâu khoảng 5 km vào khoảng 140 độ C, theo Cục khảo sát Địa chất Anh. Nếu khoan đủ sâu, có thể đạt nhiệt độ nước trên 374 độ C ở áp suất hơn 217 atm. Đây là nơi nước tiến vào trạng thái siêu tới hạn, không phải dạng lỏng cũng không phải dạng khí. Nhiệt độ và áp suất càng lớn, nó càng chứa nhiều năng lượng.

Trên thực tế, một giếng địa nhiệt siêu nóng có thể sản sinh năng lượng gấp 5 – 10 lần giếng địa nhiệt thương mại ngày nay, theo Phòng thí nghiệm năng lượng tái tạo quốc gia Mỹ (NREL). Tuy nhiên, một trở ngại chính là máy khoan xoay thông thường, ngay cả loại gắn mũi khoan kim cương, đều không đủ mạnh để đào tới độ sâu cần thiết nhằm tiếp cận nhiệt độ trên. Trong điều kiện địa chất khó dự đoán chắc chắn, nhiệt độ cực hạn và áp suất khổng lồ, các bộ phận khoan có thể hỏng hóc thường xuyên, đồng thời ngăn hố khoan khỏi bị bịt kín là một trận chiến thường trực.

Ví dụ, năm 2009, một đội làm việc trong Dự án khoan sâu Iceland gặp điều kiện siêu tới hạn khi khoan vào buồng magma ở núi lửa Krafla cách mặt đất khoảng 2 km. Hơi nước siêu nóng phát ra từ giếng khoan này có nồng độ axit cao nên rất khó sử dụng. Nhiệt độ và áp suất lớn cũng khiến nó khó kiểm soát. Cuối cùng, một hỏng hóc ở van buộc nhà chức trách phải bịt kín hố.

Khoan sâu cũng là hoạt động tiêu tốn tiền bạc và thời gian. Hố sâu nhất mà con người từng đào ra đời vào thời Chiến tranh Lạnh. Liên Xô khoan xuyên qua 12,2 km đá, tạo ra hố khoan siêu sâu Kola trên bán đảo Kola ở Vòng cực Bắc. Họ mất gần 20 năm để đạt tới độ sâu đó và kỷ lục vẫn duy trì tới ngày nay. NREL ước tính chi phí khoan giếng sâu một kilomet vào khoảng 2 triệu USD trong khi độ sâu gấp 4 lần có thể tiêu tốn 6 – 10 triệu USD với công nghệ hiện nay.

Dù vậy, năng lượng địa nhiệt dưới lòng đất sâu có thể tiết kiệm đáng kể chi phí so với địa nhiệt thông thường, do có thể tiếp cận nhiệt độ và áp suất cao hơn. Vì vậy, một số nhà nghiên cứu và công ty tiên phong ứng dụng những loại máy khoan và công nghệ khoan mới để đào những hố sâu nhất từng có.

Quaise Energy, công ty khởi nghiệp của Viện Công nghệ Massachusetts, hướng tới khoan hố sâu 12 km để tiếp cận nhiệt độ 500 độ C hoặc hơn. Để làm điều đó, họ sử dụng một công cụ dựa trên nhiều năm nghiên cứu năng lượng nhiệt hạch. Matt Houde, nhà đồng sáng lập công ty và cộng sự, thử nghiệm với chùm năng lượng sóng milimet làm bốc hơi ngay cả loại đá cứng nhất. Thiết bị tập trung chùm bức xạ năng lượng cao tương tự vi sóng nhưng ở tần số cao hơn vào một mẩu đá, nung nóng nó tới 3.000 độ C để nó tan chảy và bay hơi. Bằng cách chĩa trực tiếp chùm năng lượng để khoan xuyên đá, nhóm nghiên cứu có thể tạo ra hố sâu mà không tạo ra mảnh vụn và ma sát như kỹ thuật khoan truyền thống. “Khoan sóng milimet là một quá trình có thể vận hành không phụ thuộc vào độ sâu. Năng lượng sóng milimet có thể truyền qua môi trường đầy bụi bẩn”, Houde cho biết.

Công nghệ này phát triển từ thí nghiệm plasma nhiệt hạch tiến hành bởi Paul Woskov, kỹ sư ở Trung tâm nhiệt hạch và khoa học plasma của MIT. Năng lượng sóng milimet được khai thác như một cách làm nóng plasma trong lò phản ứng nhiệt hạch từ thập niên 1970, nhưng cách đây vài năm, Woskov phát triển cách sử dụng khác. Ông bắt đầu dùng chùm sóng milimet tạo bởi thiết bị gọi là gyrotron để làm tan chảy đá.

Tuy nhiên, tính đến nay, công nghệ mới được kiểm tra trong phòng thí nghiệm, khoan hố nông trong mẫu vật đá tương đối nhỏ. Công ty Quaise Energy cho biết nó có thể khoan xuyên qua đá ở tốc độ 3,5 m mỗi giờ. Dù tốc độ này khá chậm so với kỹ thuật khoan truyền thống, có nhiều lợi ích khác như mũi khoan không nghiền nát đá nên không bị mài mòn và không cần thay thế. Hiện nay, Quaise Energy đang ở giai đoạn cuối cùng của kiểm tra công nghệ sóng milimet trong phòng thí nghiệm để bắt đầu thử nghiệm thực địa vào đầu năm 2025. Nhưng đưa công nghệ khoan sóng milimet từ phòng thí nghiệm tới hoạt động khoan quy mô lớn vẫn là một thách thức.

Trong khi đó, công ty GA Drilling ở Slovakiađang khám phá một công nghệ khoan năng lượng cao khác để đào qua lớp vỏ Trái Đất. Họ sử dụng máy khoan xung plasma, dựa trên phóng điện năng lượng cao trong thời gian rất ngắn để làm tan vỡ đá mà không gây tan chảy. Điều này giúp tránh tạo ra bất kỳ loại đá nóng chảy trơn nhớt nào có thể khó loại bỏ và ngăn mũi khoan tiến sâu hơn. “Do quá trình cực nhanh với những luồng điện giật ngắn làm vỡ đá, không có thời gian để đá nóng chảy, giúp giảm phần lớn nhu cầu kéo lên và thay thế mũi khoan”, Igor Kocis, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành GA Drilling, cho biết. “Mục tiêu trong chương trình phát triển hiện tại của chúng tôi là độ sâu 5 – 8 km, sau này là trên 10 km. Độ sâu như vậy sẽ cho phép tiếp cận năng lượng địa nhiệt gần như ở mọi nơi”.

Nghiên cứu về máy khoan xung plasma, sử dụng xung năng lượng rất ngắn để làm tan vỡ đá bằng khí ion hóa nóng tới 6.000 độ C, cũng là định hướng của một liên minh châu Âu do tập đoàn Geothermal Energy and Geofluids (GEG) đứng đầu, cùng với các đối tác ở Đức và Thụy Sĩ. GA Drilling đang hợp tác với Konstantina Vogiatzaki, phó giáo sư khoa học kỹ thuật ở Đại học Oxford để điều chỉnh thuật toán cao cấp nhằm xem xét chất lưu siêu tới hạn có thể được điều khiển như thế nào khi khai thác nguồn năng lượng dưới lòng đất sâu thông qua khoan plasma.

Nhiều đơn vị khác đang tìm kiếm giải pháp mới để khoan sâu thông qua công nghệ phát triển dành cho nhiệm vụ thám hiểm trên bề mặt sao Kim, nơi nhiệt độ có thể lên tới 475 độ C. Ví dụ, Ozark Integrated Circuits, nhà sản xuất thiết bị điện ở Fayetteville, Arkansas, Mỹ, đang điều chỉnh bảng mạch có thể chịu nhiệt độ cực hạn sử dụng ở giàn khoan địa nhiệt sâu trong lòng Trái Đất. NREL cũng đang dựa vào AI để phân tích môi trường phức tạp dưới lòng đất nhằm tìm vị trí tốt nhất để khoan nước siêu tới hạn, cũng như dự đoán và phát hiện lỗi ở máy khoan trước khi chúng gây ra vấn đề nghiêm trọng.

Công ty địa nhiệt Eavor cho biết họ đã đạt độ sâu 5 km với 2 giếng thẳng đứng tại Gerestried, Bavaria, Đức. Họ sử dụng hai trong số những giàn khoan lớn nhất châu Âu trên đất liền nhằm tạo ra nhà máy quy mô thương mại tại Geretsried, đưa nhiệt lượng địa nhiệt lên mặt đất thông qua nước tuần hoàn trong vòng khép kín gọi là Eavor Loop. Hệ thống đó trông giống một bộ tản nhiệt khổng lồ, với nước lạnh được nung nóng dưới lòng đất, sau đó quay trở lại bề mặt và dùng để sản xuất điện cũng như bơm vào các gia đình lân cận thông qua hệ thống sưởi trung tâm. Eavor hy vọng có thể bắt đầu sản xuất năng lượng tại chỗ vào nửa đầu năm 2025, theo John Redfern, giám đốc điều hành kiêm chủ tịch của Eavor. Jeanine Vany, nhà địa chất học đồng sáng lập Eavor cho biết công nghệ của họ có thể khoan sâu tới 11 km trong tương lai.

Phương pháp mạch khép kín của họ cũng giúp tránh vấn đề ô nhiễm xảy ra khi nước siêu nóng được khai thác từ giếng địa nhiệt sâu và giảm phát thải khí độc hại như hydro sulfide.

                                                                                                                                    Nguồn: Theo BBC.

Kỷ niệm 58 năm Ngày thành lập Trường và 42 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam

Ngày 15/11/2024, tại Hội trường 300, Trường Đại học Mỏ – Địa chất (HUMG) đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 58 năm ngày thành lập trường (15/11/1966 – 15/11/2024), 42 năm ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 – 20/11/2024) và khen thưởng cho các đơn vị, cá nhân có thành tích xuất sắc trong năm học 2022-2023. Đây là dịp để cán bộ, viên chức và sinh viên Nhà trường cùng nhìn lại chặng đường phát triển đầy tự hào và hướng tới những mục tiêu cao hơn trong hành trình hội nhập quốc tế. Đây cũng là dịp tri ân sự đóng góp quý báu của các thế hệ thầy trò đã đoàn kết vượt qua khó khăn, xây dựng Nhà trường ngày càng lớn mạnh và trở thành trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học hàng đầu.

Buổi lễ có sự tham dự của bà Nguyễn Thị Hạnh – Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức Cán bộ, Bộ Giáo dục và Đào tạo; ông Đặng Trần Phi – Chủ tịch UBND phường Đức Thắng; cùng đại diện các trường đại học, học viện và doanh nghiệp đối tác.

Về phía HUMG có: PGS.TS Trần Xuân Trường – Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng trường; GS.TS Trần Thanh Hải – Hiệu trưởng; PGS.TS Triệu Hùng Trường – Phó Hiệu trưởng; PGS.TS Nguyễn Việt Hà – Chủ tịch Công đoàn trường; TS Nguyễn Cao Khải – Chủ tịch Hội Cựu chiến binh trường; ThS Nguyễn Thanh Tuấn – Bí thư Đoàn Thanh niên trường, cùng các đồng chí nguyên lãnh đạo trường qua các thời kỳ, lãnh đạo các phòng, khoa, ban và toàn thể cán bộ, giảng viên, sinh viên HUMG.

                                 GS.TS Trần Thanh Hải – Hiệu trưởng đọc diễn văn tại Lễ kỷ niệm.

Mở đầu buổi lễ, GS.TS Trần Thanh Hải – Hiệu trưởng đã có bài diễn văn Kỷ niệm 58 năm Ngày thành lập trường và 42 năm ngày Nhà giáo Việt Nam. Bài diễn văn đã tóm tắt lịch sử và quá trình phát triển của Nhà trường. Theo đó, từ năm 1966 đến nay, Nhà trường đã vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học. Hiện tại, HUMG đã trở thành trường đào tạo đa ngành định hướng nghiên cứu với 12 khoa, 8 trung tâm nghiên cứu, 1 công ty và nhiều phòng thí nghiệm hiện đại. Đội ngũ giảng viên có uy tín chuyên môn cao với 278 tiến sĩ, 59 giáo sư và phó giáo sư. Quy mô đào tạo ngày càng mở rộng với 41 ngành bậc đại học, 20 chương trình thạc sĩ và 16 chương trình tiến sĩ, đồng thời là trung tâm đào tạo quốc tế uy tín với sinh viên đến từ nhiều quốc gia. 58 năm qua, HUMG đã đào tạo hơn 90.000 kỹ sư và cử nhân, gần 11.000 thạc sĩ và hơn 500 tiến sĩ, nhiều người trong số họ đã trở thành cán bộ kỹ thuật chủ chốt, nhà quản lý, nhà giáo và lãnh đạo cao cấp. HUMG vinh dự đứng trong Top 16 – Bảng xếp hạng URAP; thứ 24 trong bảng xếp hạng Webometrics; là Trường đại học đạt chuẩn 4 sao theo định hướng nghiên cứu. Đặc biệt, tháng 7/2024, Nhà trường đã hoàn thành kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục chu kỳ 2. Nhà trường cũng đã công bố nhiều công trình khoa học có giá trị trong và ngoài nước. Nhà trường chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng mới cơ sở hạ tầng, triển khai xây dựng giảng đường hiện đại tại khu đô thị đại học diện tích 23,6 ha. Trong kế hoạch phát triển đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2045, Nhà trường đặt mục tiêu trở thành đại học nghiên cứu hàng đầu trong khu vực, đạt kiểm định quốc tế, nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, mở rộng các ngành đào tạo mới, hợp tác với doanh nghiệp và quốc tế, và xây dựng cơ sở vật chất hiện đại.

Với những đóng góp to lớn cho xã hội và công cuộc xây dựng đất nước, Nhà trường đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận bằng nhiều danh hiệu cao quý như: Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập, Huân chương Lao động và Huân chương Chiến công. Nhiều cán bộ cũng được trao tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân, Nhà giáo Ưu tú, Huân chương, Huy chương và nhiều danh hiệu cao quý khác.

Nhân dịp kỷ niệm 58 năm ngày thành lập và 42 năm ngày Nhà giáo Việt Nam, Thầy Hiệu trưởng đã gửi lời tri ân sâu sắc đến sự quan tâm chỉ đạo của các cấp Đảng ủy, sự giúp đỡ quý báu của các cơ quan, tổ chức, cùng sự đoàn kết của các thế hệ thầy trò Nhà trường. Thầy Hiệu trưởng bày tỏ mong muốn cán bộ, giảng viên và sinh viên Nhà trường luôn đoàn kết, chủ động sáng tạo, đóng góp công sức xây dựng Nhà trường ngày càng phát triển vững mạnh. Thầy Hiệu trưởng cũng đã đề ra những nhiệm vụ chính như sau: kiện toàn và cải tiến hệ thống chính trị, bộ máy hoạt động đáp ứng nhu cầu hội nhập và phát triển; nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý; ổn định quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo, mở thêm các ngành, chuyên ngành mới theo chuẩn quốc tế; nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học và hiệu quả hợp tác quốc tế; tăng cường hợp tác với doanh nghiệp; và xây dựng cơ sở vật chất hiện đại đáp ứng nhu cầu học tập, nghiên cứu khoa học.

Tại buổi Lễ kỷ niệm trọng thể này, Nhà trường đã vinh dự nhận được lãng hoa chúc mừng của Bộ Giáo dục và Đào tạo do bà Nguyễn Thị Hạnh – Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức Cán bộ đại diện Lãnh đạo Bộ trao tặng.

 Bà Nguyễn Thị Hạnh – Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức Cán bộ đại diện Lãnh đạo Bộ                                                               trao tặng Nhà trường lãng hoa tươi thắm.

Trong buổi Lễ kỷ niệm, Nhà trường đã thừa ủy quyền trao tặng các khen thưởng bậc cao :

– Trao tặng huân chương lao động hạng 3 cho PGS.TS Nguyễn Ngọc Khánh – Trưởng phòng Tổ chức cán bộ; TS Nguyễn Thị Kim Ngân – Nguyên Trưởng Bộ môn Quản trị doanh nghiệp Địa chất – Dầu khí

                          PGS.TS Nguyễn Ngọc Khánh  và TS Nguyễn Thị Kim Ngân nhận                                                                             Huân chương Lao động hạng 3 tại buổi Lễ

– Trao tặng Bằng khen Thủ tướng Chính phủ cho: GVC.TS Công Ngọc Thắng – Trưởng Bộ môn Lọc – Hóa dầu, Phó Chánh Văn phòng Chương trình tiên tiến, PGS.TS Lê Đắc Tuyên – Phó trưởng bộ môn Vật lý, Khoa Khoa học cơ bản; TS Trần Thị Phúc An – Trưởng khoa L lý luận chính trị; PGS.TS Đào Viết Đoàn – khoa Xây Dựng

                                  Các cá nhận Bằng khen của Thủ tướng chính phủ tại buổi Lễ.

– Vinh danh Nhà giáo ưu tú đối với TS Nguyễn Thị Kim Ngân – Nguyên Trưởng Bộ môn Quản trị doanh nghiệp Địa chất – Dầu khí

   TS Nguyễn Thị Kim Ngân – Nguyên Trưởng BM QTDN Địa chất – Dầu khí nhận vinh danh NGƯT

– Trao tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp Bộ cho PGS.TS Đỗ Như Ý, PGS.TS Lê Xuân Thành, PGS.TS Lê Văn Hưng, PGS.TS Bùi Trường Sơn, PGS.TS Lê Minh Thống, TS Nguyễn Phương Đông.

– Trao tặng Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cho 18 tập thể và 78 cá nhân;

 

– Trao tặng giải thưởng Khoa học công nghệ HUMG năm 2023 – 2024 cho TS Trần Thị Hà – Bộ môn Vật lý, Khoa Khoa học cơ bản

                         TS Trần Thị Hà – BM Vật lý, Khoa KHCB nhận vinh danh tại buổi lễ

– Trao tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp giáo dục” cho 58 cá nhân;

 

– Công nhân danh hiệu Tập thể Lao động xuất sắc cho 61 tập thể.

Buổi Lễ kỷ niệm khép lại trong niềm vui và tự hào của toàn thể cán bộ, giảng viên và sinh viên HUMG. Những thành tích được ghi nhận hôm nay là minh chứng cho sự cống hiến và nỗ lực không ngừng nghỉ của các thế hệ thầy và trò Nhà trường. Đây cũng là động lực để Nhà trường tiếp tục phát triển, hướng tới mục tiêu đến năm 2030, HUMG trở thành đại học đa ngành định hướng nghiên cứu có uy tín trong nước và quốc tế.

Nguồn: Fanpage của Trường ĐH Mỏ – Địa chất.

Bài viết chuyên sâu về việc “Động đất tại KomTum” (phần 2)

GIẢI MÃ CƠ CHẾ ĐỘNG ĐẤT KÍCH THÍCH

TẠI THỦY ĐIỆN SÔNG TRANH 2.

 

                                                            Lê Trọng Thắng – Trường Đại học Mỏ-Địa chất

Công Trình Thủy điện Sông tranh 2 được xây dựng trên sông Tranh, thuộc hệ thống sông Vũ Gia- Thu Bồn.. Đập chính của công trình cao trên 97 m, cách trung tâm huyện lỵ Bắc Trà My khoảng 10 km về phía tây, có tọa độ: 1501445” và 10801468”. Hồ chứa nước kéo dài theo thung lũng sông tranh, sông Pui và các suối lớn: Nước Tà, Nước Tà Vi, Nước Xa có diện tích 21 km2. Mực nước dâng bình thường trong hồ (MNDBT):175 m; mực nước chết (MNC): 140m.

1. Đặc điểm địa chất – kiến tạo và thủy địa nhiệt khu vực công trình [ 1 ]

    • Địa tầng – kiến tạo

– Hệ tầng Sông Re ( PR1Sr) lộ ra ở phía nam hồ chứa, chiếm diện tích khoảng 5 km2 với tập 1là các đá biến chất gnei biotit, plagiogneis biotit; plagiogneis 2 mica; tập 2 là Goneibiotit –horblend, plagiogneis biotits-horblend xen đá phiến thạch anh- biotit-amphibol; tập 3 là đặc trưng xen kẽ của Goneibiotit, plagiogneis biotit, đá phiến thạch anh-fenspat-biotit-horblend.

– Hệ tầng Tắc Pỏ ( PR1tp) lộ ra ở thượng lưu hồ chứa, khu vực ngã ba Sông Tranh 2 với suối nhánh Nước xa, có diện tích khoảng 6km2. Thành phần thạch học chủ yếu là gneis biotit, plagiocla biotit, ít đá phiến thạch anh biotit, phiến thạch anh biotit-graphit.

– Hệ tầng Khâm Đức (PR1kd) phân bố rộng rãi, chiếm diện tích khoảng 80 km2 gồm: tập 1 là các đá phiến kết tinh, đá phiến plagiocla- thạch anh-biotit, đá phiến thạch anh – plagiocla-biotit, đá phiến thạch anh có granat; tập 2 chủ yếu là amphibol xen kẹp phiến kết tinh; tập 3 chủ yếu là gneis, gneis amphibol, gneis amphibol-biotit.

Phần trên cùng là các thành tạo đệ tứ gồm các trầm tích aluvi và proluvi phát triển dọc thung lũng sông Tranh.

Hoạt động mác ma xâm nhập trong vùng cũng rất mạnh với các phức hệ Tà Vi, Nậm Nin, Chu Lai, Trà Bồng.

Đứt gẫy trong khu vực phát triển theo phương á vĩ tuyến và TB-ĐN. Hệ thống đứt gẫy theo phương á vĩ tuyến cắt qua khu vực hồ chứa nước sông Tranh gồm: đứt gẫy bậc II Hưng Nhượng – Tà Vi, là đứt gẫy phân đới nằm ở thượng lưu hồ chứa, phân chia hai đới cấu trúc Ngọc Linh và Trà Bồng-Khâm Đức, trong phạm vị nghiên cứu có chiều dàì 5 km. Qúa trình thực địa kiểm tra đã quan sát được dấu vết của đứt gẫy này với khe hẻm kéo dài và vết lộ đới phá hủy ngay bên bờ phải hồ, cách đập khoảng 2 km, hình 1.

Hình 1. Ảnh đứt gãy bậc 2 Hưng Nhượng- Tà Vi bên bờ phải phía thượng lưu hồ, cắt qua lòng hồ ( Chụp ngày 4/11/2012)

Các đứt gẫy bậc III gồm: đứt gẫy III1 nằm phía trái sông Tranh, cách đập 2 km, cắt qua tập 3 của đất đá hệ tầng Khâm Đức, kéo dài 11 km trong khu vực nghiên cứu; đứt gẫy III2 nằm ở bờ phải sông Tranh cách đập 2 km, trung tâm vùng nghiên cứu và kéo dài 6 km trong phạm vi khu vực nghiên cứu; đứt gẫy III3 ở phía nam vùng nghiên cứu, dài 9 km và đóng vai trò ranh giới tập 1, tập 2 của hệ tầng Khâm Đức; đứt gẫy III4 nằm trong đới cấu trúc Ngọc Linh, là ranh giới của hệ tầng Sông Re và hệ tầng Tắc pỏ, trong phạm vi nghiên cứu dài 5,5 km. Hệ thống đứt gẫy Tây Bắc – Đông Nam khá phát triển trong vùng nghiên cứu và chủ yếu là đứt gẫy bậc IV, có chiều rộng đới phá hủy 0.5-2 m, đới ảnh hưởng hàng chục mét, chiều dài hàng trăm đến hàng nghìn mét. Các đứt gẫy bậc IV hầu hết là đứt gẫy thuận, mang tính trượt bằng phải hoặc trái, có biên độ dịch chuyển từ vài mét đến vài chục mét.

Theo tài liệu của Trung tâm địa chấn quốc tế (ISC) thì động đất trong khu vực được ghi chép bắt đầu từ năm 1917. Theo tài liệu quan trắc của mạng lưới trạm địa chấn Việt Nam thì các rung động địa chấn được ghi nhận từ tháng 3 năm 1917 có cường độ 4,7 độ Richter và lớn nhất vào ngày 25/7/1957 đạt 4,8 độ Richter. Một số trận động đất vào các năm 1991, 1992 có cường độ chủ yếu từ 2 đến 3 độ Richter [1].

 

1.2. Đặc điểm thủy địa nhiệt khu vực

Do không nằm trong các vành đai kiến tạo nên nhìn chung, Việt Nam cũng không phải là nơi có tiềm năng lớn về địa nhiệt như một số nước láng giềng Nhật Bản, Phi lippines, Indonesia, Trung Quốc hay Pakistan. Gradien địa nhiệt phần trên đất liền chỉ đạt mức trung bình 2.50 ÷30 C / 100 m. Một số lỗ khoan tại khu vực thềm lục địa có thể đạt 600÷900 C [4]. Tuy nhiên, theo các tài liệu nghiên cứu vê tiềm năng địa nhiệt củả Việt Nam, những khu vực có chế độ kiến tạo và macma hoạt động mạnh như vùng Tây Bắc, đới Trường Sơn thì tiềm năng địa nhiệt khá tốt.

Dọc theo các đới này phát hiện được nhiều mạch nước nóng có nhiệt độ rất cao. Số liệu thông kê trong bảng dưới đây:

Từ bảng số liệu trên có thể nhận thấy, dọc theo dải miền trung có thể gặp các nguồn nước rất nóng có nhiệt độ tới hàng trăm độ C, cá biệt có điểm nước quá nóng nhiệt độ lên tới trên 1000 C. Theo số liệu tính toán lý thuyết thì một số điểm ở miền Trung như Thạc Trụ, Bang, nhiệt độ có thể đạt tới 1840 C [5]. Theo Danh bạ các nguồn nước khoáng và nước nóng Việt Nam [3] thì dải phân bố từ Đà Nẵng qua khu vực Trà My (Sông Tranh) vào đến Quảng Ngãi có nhiều mạch nước nóng nhiệt độ từ trên dưới 400C đến gần 800C đã cho thấy, khu vực Sông Tranh 2 có nền địa nhiệt lớn và liên quan đến các hoạt động macma và kiến tạo của khu vực.

     Đặc điểm địa nhiệt ở khu vực nghiên cứu có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành động đất kích thích tại khu vực hồ thủy điện Sông Tranh 2.

2. Diễn biến động đất xảy ra tại khu vực thủy điện Sông Tranh 2

Thủy điện Sông Tranh 2 bắt đầu tích nước từ 29/11/ 2010 và đến tháng 2/ 2011 thì đạt cao trình 158 m. Từ 13/10/ 2011 đến ngày 3/11/ 2011, mực nước hồ được nâng đến cao trình MNTKBT là 175m và được giữ liên tục trong 3 tháng, sau đó hạ dần đến cao trình MNC là 140 m vào ngày 22/6/ 2012 và duy trì lâu dài ở mực nước này nhằm giảm ảnh hưởng của động đất. Rung chấn đầu tiên với cường độ thấp quan trắc được vào ngày 24/12/ 2011, tức là sau gần 1 tháng tích nước, trước khi đạt cao trình mực nước dâng 158 m. Liên tục đến ngày 2/9/2012 xảy ra 41 lần rung chấn với cường độ chủ yếu trên dưới 3 độ richter. Từ ngày 3/9/ 2012 đến  ngày 25/10/2012 đã liên tiếp xảy ra 27 lần rung chấn, đặc biệt có các trận ngày 3/9 đạt 4.2 độ, ngày 23/10 đạt 4.1 độ và ngày 22/10 đạt 4.6 độ với gia tốc nền đo được là 106,82 cm/s2. Ngày 15/10/2012 xảy ra trận động đất lớn nhất với cường độ 4.7 độ richter, sau đó các ngày 9/12 xảy ra trận 3.9 độ; 28/12/2012 là 4 độ, ngày 7/3/2013 là 3.6 độ, ngày 7/4/2013 là 3.8 độ, ngày 25/11/2013 có rung nhẹ  và đo được 2.3 độ, ngày 12/1/2014 xảy ra trận động đất 2,6 độ richter, 28/4/215 là 2,2 độ và 12/6/2014 có hai rung chấn nhỏ. Sau thời gian khá dài ổn định, ngày 20/2/2015 đã xảy ra rung chấn có cường độ  2,5 độ Richter  và ngày 21/2/2015 có dư chấn nhỏ trong trạng thái mực nước dâng thiết kế.

Một số điểm cần lưu ý:

– Những rung chấn có cường độ lớn tập trung vào thời gian mực nước đã hạ xuống mức 140 m, ngang mực nước chết (biểu đồ hình 2);

– Mỗi lần xảy ra rung chấn, theo mô tả đều kèm theo các tiếng nổ ngầm trong lòng đất, đặc biệt có lúc tiếng nổ ngầm xẩy ra liên tục, có khi chỉ nghe được những tiếng nổ lụp bụp.

– Từ dãy số liệu quan trắc địa chấn nhận thấy, các rung chấn xảy ra có tính chu kỳ rất rõ, có giai đoạn xuất hiện liên tục với tần suất 1 đến 2 ngày / trận, cụ thể:  Từ ngày 24/12/2011 đến 15/4/2012 xảy ra 27 rung chấn có tần suất trung bình 4 ngày/trận. Thời gian ngắn nhất là 1 ngày và dài nhất là 15 ngày; Từ 27/4/2012 đến 30/8/2012 xảy ra 3 đợt rung chấn với khoảng cách 12, 102 và 13 ngày; Từ 2/9/2012 đến 25/10/2012 xảy ra 18 rung chấn, trung bình 3 ngày/trận. thời gian ngắn nhất là 1 ngày và lâu nhất là 9 ngày; Từ 15/11/2012 đến 20/2/2015 xảy ra 12 rung chấn có tần suất trung bình 70 ngày. Đáng chú ý là trong thời gian này các trận ngày 9/9/2013 có dãn cách 132 ngày, rung chấn ngày 28/5/2014 là 136 ngày và rung chấn ngày 20/2/2015 là 250 ngày và dư chấn tiếp theo cách 1 ngày. Hiện nay các rung chấn đã cơ bản đi vào ổn định. (Bảng 3)

Như vậy, tình hình động đất kích thích xẩy ra tại Thủy điện sông Tranh 2 với trên dưới 70 trận động đất có cường độ khác nhau xảy ra liên tục trong thời gian qua đã cho thấy tính chất đặc biệt tại công trình thủy điện này, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu để giải mã cơ chế của nó, từ đó cho phép đưa ra các dự báo cũng như có thể rút ra những đánh giá cần thiết cho các trường hợp tương tự.

3.Giải mã cơ chế động đất kích thích tại thủy điện Sông Tranh 2

Thực tế xây dựng các công trình đập và hồ chứa cũng như các hoạt động khác gây sũng ướt đất đá đã làm tăng hoạt tính địa chấn, bao gồm cả tần số và cường độ của động đất. Hiện tượng động đất kích thích được ghi nhận đầu tiên tại công trình đập Guver và hồ chứa Mid Leyk Colorado (Mỹ) được xây dựng năm 1937. Khi phân tích các tài liệu liên quan, nhóm công tác của UNESCO đã có nhận xét: thực tế khi tích nước vào các hồ chứa có nhiều trường hợp đã gây nên động đất. Tuy nhiên một số hồ khác lại không xẩy ra các hiện tượng động đất kích thích. Thời gian xẩy ra động đất kích thích thường rơi vào thời kỳ 2-3 năm đầu tích nước hồ. Tuy nhiên cũng có trường hợp thời gian này kéo dài hơn như hồ Aswoan Ai Cập sau khi tích nước năm 1964 và đến năm 1981, tức 17 năm sau xảy ra động đất 5.6 độ. Hồ chứa nước Koyna An độ xảy ra động đất kích thích 6.3 độ sau 5 năm tích nước và tiếp tục xảy ra các trận động đất kích thích có cường độ đáng kể sau 30 năm. Các yếu tố chiều cao cột nước, dung tích hồ cũng như diện tích mặt thoáng đều có liên quan đến khả năng xảy ra động đất kích thích. Theo giáo sư P.Rotê (Pháp) thì cột nước trong hồ chứa đóng vai trò quan trọng hơn so với dung tích hồ [4]. Peter M. Jemes cho rằng, hiện tượng động đất xảy ra khi hồ chứa nước làm thay đổi áp lực nước trong lòng đất với mức độ đủ để các cấu trúc địa chất dịch chuyển để gây nên động đất [7]. Nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu và tìm hiểu nguyên nhân xẩy ra động đất kích thích khi xây dựng các hồ chứa nước [8] và nhìn chung đều có sự thống nhất về nguyên nhân gây động đất kích thích sau khi xây dựng đập và tích nước vào hồ chứa là do 2 yếu tố chủ yếu:

– Do trọng lượng cột nước cao trên diện tích hồ rộng lớn đã tác động vào các cấu trúc đất đá dưới sâu, làm tăng trạng thái ứng suất tự nhiên đã được tích tụ đến gần trạng thái giới hạn trong các khối đá, vượt quá khả năng độ bền của chúng, gây dịch chuyển và phát sinh các chấn động địa chấn. Thường khi hồ chứa có cột nước từ 100 m trở lên có nhiều khả năng xảy ra động đất kích thích.

– Do nước thấm sâu vào đới dập vỡ của các đứt gẫy dưới lòng hồ, làm tăng áp lực nước lỗ rỗng và giảm áp lực hữu hiệu trong đới dập vỡ của đứt gẫy, dẫn đến giảm khả năng kháng cắt của đất đá. Ngoài ra, sự tẩm ướt đất đá ở đới dập vỡ còn làm giảm các chỉ tiêu sức kháng cắt của chúng, đặc biệt là giảm chỉ tiêu lực dính.  Kết quả là làm cho sự tích tụ ứng suất trong đới đứt gẫy vượt quá giới hạn độ bền, làm dịch chuyển các khối đá, giải phóng năng lượng tích tụ và gây nên các chấn động địa chấn. Yếu tố này có thể gây nên động đất kích thích ngay cả khi hồ chứa nước có cột nước dâng không lớn và chỉ có tác động khi tồn tại các con đường cho nước hồ vận động xuống sâu để tẩm ướt đất đá.

Tuy nhiên, có tác giả còn cho rằng [4], một số trường hợp động đất kích thích có thể  liên quan đến sự phá vỡ cân bằng giữa áp lực bên trong của nước dưới đất quá nhiệt dưới sâu và áp lực của các khối đất đá nằm trên dọc theo các phá hủy kiến tạo. Đây là cơ sở để có thể xem xét cơ chế của động đất kích thích tại thủy điện Sông Tranh 2.

Nếu căn cứ vào cơ chế chung gây nên dịch chuyển đất đá trong đới đứt gẫy sẽ rất khó thuyết phục khi giải thích những đặc điểm riêng của hiện tượng động đất kích thích xảy ra tại công trình thủy điện Sông Tranh 2. Theo cơ chế dịch chuyển đất đá thì nhìn chung, khả năng dịch chuyển đất đá để tạo nên các rung chấn được tích lũy dần theo các yếu tố tích lũy về tải trọng (chiều cao cột nước), thời gian gia tăng áp lực nước lỗ rỗng, thời gian mềm hóa làm giảm độ bền của đất đá. Những yếu tố này chỉ có tác động trong điều kiện cấu kiến tạo nhất định và thường phát triển trên các khu vực có đứt gẫy lớn, thời gian thường kéo dài.  Theo cơ chế này rất khó giải thích tính chu kỳ dầy đặc và biểu hiện các rung chấn kèm theo những tiếng nổ ngầm, có khi là tiếng nổ lục bục liên tục ngầm trong lòng đất. Mặt khác, những rung chấn chủ yếu và có cường độ lớn nhất lại rơi vào thời gian mực nước trong hồ đã hạ thấp xuống mực nước chết trong thời gian dài.

Trên cơ sở phân tích đặc điểm địa chất, kiến tạo và thủy địa nhiệt khu vực, có thể thấy rằng, cơ chế của động đất kích thích tại công trình thủy điện Sông Tranh 2 không liên quan đến sự dịch chuyển của đất đá theo cơ chế thông thường như cách giải thích của các nhà khoa học.  Cơ chế xảy ra động đất kích thích lại thủy điên Sông Tranh 2 liên quan trực tiếp đến đặc điểm địa nhiệt của khu vực kết hợp với nước thấm từ lòng hồ xuống sâu, dẫn đến việc tích tụ hơi nước và làm tăng áp suất cục bộ. Khi áp suất cục bộ vượt quá giới hạn nào đó sẽ phát nổ  và gây nên sóng địa chấn ( cơ chế nổ nồi hơi).

Cơ chế này được gải thích cụ thể như sau: Sự có mặt của các đứt gẫy trong khu vực, đặc biệt là đứt gẫy bậc II Hưng Nhượng – Tà Vi đã tạo nên đới dập vỡ dọc theo đứt gẫy. Trong đới dập vỡ đã hình thành những khu vực có độ rỗng cục bộ rất lớn. Bình thường, nước hồ khó có thể thấm qua lớp phủ trên mặt để xuyên xuống sâu trong đới dập vỡ của đứt gẫy. Tuy nhiên, dưới tác dụng của áp lực cột nước hồ lớn tạo nên gradient thấm vượt quá nhiều so với gradient giới hạn của đất đá, tạo nên dòng thấm xuyên đi xuống dưới sâu. Khi gặp đới địa nhiệt có nhiệt độ cao trên 100 0 C, nước sẽ bị bốc hơi và tích tụ lại trong những khoảng trống do đứt gẫy tạo nên trong lòng đất. Dòng nước phía trên vẫn tiếp tục di chuyển xuống đã tạo nên nút bịt, làm tăng áp suất trong các khoảng trống này. Khi áp lực hơi nước tích tụ  vượt quá trọng lượng cột nước đi xuống sẽ phát nổ và gây nên sóng địa chấn. Nếu sự tích lũy áp suất trong những khoảng trống nhỏ hoặc đồng thời trong nhiều khoảng trống nhỏ sẽ dẫn đến những vụ nổ liên tiếp, tạo nên những tiếng nổ liên tục ngầm trong lòng đất đã nghe được mỗi khi xảy ra các rung chấn và tạo nên các rung chấn có cường độ thấp. Những rung chấn xẩy ra theo cơ chế này cho thấy, không nhất thiết cột nước cao mới gây nên động đất, mà chỉ cần độ cao đủ lớn để tạo nên dòng thầm đi xuống sâu trong lòng đất. Điều này đã giải thích rõ, tại sao các rung chấn chủ yếu và có cường độ lớn nhất lại xảy ra trong khoảng thời gian mực nước hồ đã giảm về mực nước chết và tồn tại trong thời gian dài. Như vậy, cơ chế này cũng cho thấy, dù các đứt gẫy có quy mô không lớn nhưng vẫn có thể là tiền đề để tạo nên hiện tượng động đất kích thích nếu như nó có thể là con đường để nước thấm sâu vào lòng đất có điều kiện địa nhiệt thích hợp. Từ phân tích cho thấy, vai trò gây nên động đất kích thích tại công trình thủy điện Sông tranh 2 không chỉ do đứt gẫy bậc II, mà có thể cả các đứt gẫy bậc III và IV khi chúng là những con đường thấm để nước đi xuống sâu trong lòng đất. Như vậy, điều khác biệt của cơ chê là các rung chấn không phải được gây nên do sự dịch chuyển của đứt gẫy mà đứt gẫy chỉ đóng vai trò là con đường dẫn nước và hình thành nên đới dập vỡ có độ rỗng lớn.

Qúa trình di chuyển của dòng thấm càng xuống sâu càng chậm lại do sức cản thủy lực, đồng thời diễn ra quá trình làm nguội dần nhiệt độ của đất đá trong đới chịu tác động của dòng thấm. Khi quá trình này dần đạt đến trạng thái cân bằng, phần đất đá này sẽ nguội dần và không còn điều kiện để tích tụ hơi nước nữa, dẫn đến các rung chấn giảm dần và đi vào ổn định. Nơi nào đó cục bộ vẫn còn những điều kiện tích tụ, đặc biệt là trong thời gian kéo dài, sẽ tiếp tục có những vụ nổ nhỏ cục bộ và gây nên những rung chấn nhỏ. Theo cơ chế này  có thể thấy, thời gian đâu các chấn tâm sẽ xẩy ra ở độ sâu không lớn và gần các đứt gẫy ở khu vực hồ chứa hơn và càng về sau, các tâm chấn sẽ có xu hướng xuông sâu và xa dần.

Từ cơ chế hình thành động đất kích thích công trình Thủy điện Sông Tranh 2, có thể rút ra một số kết luận sau:

        1. Theo cơ chế của động đất kích thích xảy ra tại công trình thủy điện Sông Tranh 2 liên quan đến đặc điểm địa nhiệt của khu vực, có thể cho phép dự báo quá trình tác động địa nhiệt của dòng thấm đã đi vào trạng thái cân bằng và nhìn chung không còn tiền đề để xảy ra động đất có cường độ cao. Thời gian tới, nếu xẩy ra các rung chấn thì chỉ mang tính chất cục bộ với cường độ và tần suất nhỏ.

         2. Khu vực xây dựng các công trình hồ chứa nước có điều kiện địa nhiệt cao, tồn tại hệ thống đứt gẫy có thể tạo nên những đường thấm để nước hồ có thể đi xuống sâu trong lòng đất là những nơi có tiền đề xẩy ra hiện tượng động đất kích thích liên quan đến cơ chế địa nhiệt.

        3. Hiện tượng động đất kích thích xảy ra theo cơ chế liên quan đến điều kiện địa nhiệt có thể xảy ra kể cả đối với các hồ chứa nước không lớn và cột nước dâng thấp, miễn là hội đủ các điều kiện cần thiết.

Kiến nghị:

– Khi xây dựng các hồ chứa nước lớn và cột nước cao, ngoài việc nghiên cứu các đặc điểm kiến tạo của khu vực xây dựng, cần nghiên cứu sự xuất hiện của các mạch nước nóng là dấu hiệu cho thấy tiềm năng địa nhiệt của khu vực xây dựng.

– Khi khu vực xây dựng hồ có đủ tiền đề xảy ra động đất kích thích theo cơ chế liên quan đến địa nhiệt, tốt nhất là không nên chọn vị trí lòng hồ có những đứt gẫy lớn. Trường hợp không tránh được, cần có giải pháp kỹ thuật giảm khả năng thấm của nước hồ xuống sâu.

Tài liệu tham khảo:

  1. Tài liệu khảo sát ĐCCT giai đoạn thiết kế kỹ thuật Thủy điện Sông Tranh 2 do Tổng công ty Tư vấn Thiết kế Thủy điện I lập;
  2. Tài liệu quan trắc động đất tại Thủy điện Sông Tranh 2 do bên A cung cấp và theo dõi qua nguồn mạng;
  3. Võ Công Nghiệp (chủ biên). Danh bạ nước khoáng và nước nóng Việt Nam. Cục Địa chất và khoáng sản Việt Nam;
  4. Võ Công Nghiệp. Cần có một cách nhìn đúng mực về tiềm năng địa nhiệt Việt Nam. Tạp chí Địa chất số 336-337;
  5. Hoàng Hữu Qúy (chủ biên). Báo cáo “ Nghiên cứu đánh giá tiềm năng địa nhiệt lãnh thổ từ Quảng Nam-Đà Nẵng đến Bà Rịa – Vũng Tầu”, 1995. Lưu trữ tại Viện Địa chất và khoáng sản Hà Nội.
  6. D. Loomtadze. Địa chất động lực công trình, Nhà xuất bản “Trái đất” chi nhánh Leningrad, 1977;
  7. Peter M. Jemes. “ Mechanissms of reservoir induced seismicity”(nguồn mạng)
  8. Các bài viết liên quan đến động đất kích thích theo nguồn mạng: http://tiasang.com.vn; http://tonghoidiachat.vn.

 

GIẢI MÃ CƠ CHÊ ĐỘNG ĐÁT KÍCH THÍCH

TẠI CÔNG TRÌNH THỦY ĐIỆN SÔNG TRANH 2

 

                                               PGS.TS.Lê Trọng Thắng – Trường Đại học Mỏ – Địa chất

Tóm tắt: Sau khi tích nước hồ chứa công trình thủy điện Sông Tranh 2 đã xảy ra gần hàng trăm rung chấn với cường độ lớn nhất đạt được là 4,7 độ Richter. Với đặc điểm của tần suất cũng như diễn biến của các rung chấn kèm theo những tiếng nổ ngầm, có khi là nổ liên tục trong lòng đất đã cho thấy, hiện tượng động đất kích thích tại công trình này có sự khác biệt về cơ chế so với những trận động đất kích thích đã từng xẩy ra. Trên cơ sở phân tích tài liệu quan trắc địa chấn cũng như các đặc điểm địa chất, kiến tạo và thủy địa nhiệt của khu vực, nội dung báo cáo đã nêu giả thuyết về cơ chế động đất kích thích tại công trình này phù hợp với quy luật vật lý và giải thích được sự khác biệt của động đất kích thích xảy ra tại công trình này. Kết quả nghiên cứu đã cho phép đưa ra dự báo diến biến động đất kích thích cũng như dự báo khả năng xảy ra động đất kích thích tại các hồ chứa nước có điều kiện địa chất, kiến tạo và thủy địa nhiệt tương tự.

Bài viết chuyên sâu về việc “Động đất ngày 31/07/2024 tại KomTum” (phần 1)

LỜI GIỚI THIỆU

Thời gian hiện nay đang xẩy ra loạt trận động đất tại khu vực Kon Tum Tây Nguyên. Trận động đất ngày 28/7/2024 đạt tới 5 độ Richter. Diễn biến của động đất tại Kon Tum đang được sự quan tâm đặc biệt của xã hội. Theo các thông tin trên truyền thông, một số nhà hoa học cho rằng các trận động đất có nguồn gốc động đất kích thích, liên quan đến các hồ chứa nước trong khu vực. Hiện tượng động đất đang diễn ra hiện nay tại Kon Tum khá giống với diễn biến các trận động đất xẩy ra trong các năm từ 2012 đến 2014 sau khi hồ thủy điện Sông Tranh 2 tích nước. Hàng trăm trận động đất ở khu vực thủy điện Sông Tranh 2 cũng làm dậy sóng dư luận xã hội lúc bấy giờ..

Năm 2014, khi động đất tại Sông Tranh 2 đang diễn biến mạnh và gây nhiều sự quan tâm của chính phủ và xã hội, Tôi được may mắn tham gia đoàn công tác của Hội Địa chất công trình và Môi trường Việt Nam vào thủy điện Sông Tranh 2 để tìm hiểu, nghiên cứu hiện tượng động đất kích thích đang xẩy ra tại đây. Sau đợt công tác này, tôi đã có báo cáo tại Hội thảo khoa học về động đất tại Sông Tranh 2 do Hội Địa chất công trình và Môi trường Việt Nam tổ chức. Trên cơ sở các nghiên cứu tiếp theo, tôi đã có một bài báo đăng trên tập san Hội Nghị khoa học quốc tế HANOIGEO 2015. Trên cơ sở các dữ liệu có và diễn biến của các trận động đất, bài báo đã đưa ra giả thuyết để lý giải cơ chế xẩy ra động đất kích thích tại thủy điện Sông Tranh 2 theo một cách tiếp cận hoàn toàn khác với các giả thuyết về cơ chế xẩy ra động đất kích thích vẫn được các nhà nhiên cứu trên thế giới sử dụng. Bài báo cho thấy, cơ chế xảy ra động đất kích thích có thể khác nhau tùy theo điều kiện tự nhiên cụ thể. Ngoài những yếu tố địa chất có thể gây nên động đất kích thích như thường vẫn gặp, động đất kích thích tại thủy điện Sông Tranh 2 còn liên quan đến đới địa nhiệt cao của khu vực.

Vưa qua trên truyền thông có đưa tin về hiện tượng  giếng nước ở Kon Tum tự phun, chủ yếu là hỗn hợp khí và nước lên độ cao hàng chục mét, xuất hiện sau khi xẩy ra động đất tại khu vực này. Tin này đã củng cố thêm vào giả thuyết về cơ chế động đất kích thích xảy ra tại Thủy điện Sông Tranh 2 mà tôi đã công bố cách đây 10 năm. Rất có thể đây cũng là dấu hiệu cho thấy các trận động đất hiện đang xảy ra tại Kon Tum có nguồn gốc là động đất kích thích. Theo giả thuyết được nêu, cơ chế xẩy ra động đất kích thích có yếu tố liên quan đến đới địa nhiệt cao hoàn toàn có thể giải thích hiện tượng giếng phun hỗn hợp nước khí tại Kon Tum một cách có cơ sở khoa học. Cần chú ý phân biệt giữa hiện tượng nước phun lên từ giếng khoan do nước nước ngầm có áp gây nên hoàn toàn khác với hiện tượng hỗn hợp khí nước được phun lên từ giêng khoan như đã được mô tả.

Để cung cấp cho các nhà khoa học và đông đảo bạn đọc quan tâm, tôi xin đăng lại toàn văn hai bài viết đã được báo cáo tại Hội thảo và đăng trên tập san của Hội nghị khoa học  quốc tế HANOIGEO 2015. Bài báo cáo Hội thảo khoa học có tiêu đề: “ Đánh giá hiện tượng động đất kích thích tại thủy điện Sông Tranh 2”. Bài báo khoa học có tiêu đề “ Giaỉ mã cơ chế động đất kích thích tại thủy điện Sông Tranh 2”.                                                                                                                                                                                                                         PGS.TS. Lê Trọng Thắng.

 

 

ĐÁNH GIÁ HIỆN TƯỢNG ĐỘNG ĐẤT KÍCH THÍCH

 TẠI THỦY ĐIỆN SÔNG TRANH 2.

 

                                                                    Tác giả: PGS.TS. Lê Trọng Thắng-Trường Đại học Mỏ-Địa chất

Dự án Thủy điện Sông tranh 2 được xây dựng trên sông Tranh, thuộc hệ thống sông Vũ Gia- Thu Bồn với quy mô công trình có MNDBT:175 m; MNC: 140 m. Đập chính cao trên 97 m. Công suất nhà máy dự kiến 190 MW. Đập của nhà máy cách trung tâm huyện lỵ Bắc Trà My khoảng 10 km về phía tây. Nhà máy thủy điện nằm bên trái, cách hạ lưu đập 4 km. Hồ chứa nước kéo dài theo thung lũng sông tranh, sông Pui và các suối lớn: Nước Tà, Nước Tà Vi, Nước Xa có diện tích hồ 21 km2. Công trình bắt đầu tích nước vào tháng 11năm 2010.

  1. Khái quát về đặc điểm cấu trúc địa chất và hoạt động kiến tạo tại khu vực thủy điện Sông Tranh 2

Theo báo cáo kết quả khảo sát địa chất giai đoạn 2 phục vụ thiết kế kỹ thuật cho công trình thì cấu trúc địa chất khu vực xây dựng được tóm lược như sau:

  • Địa tầng

– Hệ tầng Sông Re ( PR1Sr) lộ ra ở phía nam hồ chứa, chiếm diện tích khoảng 5 km2 với tập 1 có thành phần thạch học là các đá biến chất gnei biotit, plagiogneis biotit; plagiogneis 2 mica; tập 2 là Goneibiotit –horblend, plagiogneis biotits-horblend xen đá phiến thạch anh- biotit-amphibol; tập 3 là đặc trưng xen kẽ của Goneibiotit, plagiogneis biotit, đá phiến thạch anh-fenspat-biotit-horblend.

– Hệ tầng Tắc Pỏ ( PR1tp) lộ ra ở thượng lưu hồ chứa, khu vực ngã ba Sông Tranh 2 với suối nhánh Nước xa, có diện tích khoảng 6km2. Thành phần thạch học chủ yếu là gneis biotit, plagiocla biotit, ít đá phiến thạch anh biotit, phiến thạch anh biotit-graphit.

– Hệ tầng Khâm Đức (PR1kd) phân bố rộng rãi, chiếm diện tích khoảng 80 km2. Hệ tầng này gồm: tập 1 có thành phần các đá phiến kết tinh, đá phiến plagiocla- thạch anh-biotit, đá phiến thạch anh – plagiocla-biotit, đá phiến thạch anh có granat; tập 2 có thành phần chủ yếu là amphibol xen kẹp phiến kết tinh; tập 3 chủ yếu là gneis, gneis amphibol, gneis amphibol-biotit.

Phần trên cùng là các thành tạo đệ tứ gồm các trầm tích aluvi và proluvi phát triển dọc thung lũng sông Tranh.

Hoạt động mác ma xâm nhập trong vùng cũng rất mạnh với các phức hệ Tà Vi, Nậm Nin, Chu Lai, Trà Bồng.

  • Hoạt động đứt gẫy

Đứt gẫy phát triển theo phương á vĩ tuyến và các đứt gẫy phát triển theo phương TB-ĐN. Đáng chú ý là hệ thống đứt gẫy theo phương á vĩ tuyến cắt qua khu vực hồ chứa nước sông Tranh gồm: đứt gẫy bậc II Hưng Nhượng – Tà Vi, là đứt gẫy phân đới nằm ở thượng lưu hồ chứa, phân chia hai đới cấu trúc Ngọc Linh và Trà Bồng-Khâm Đức, trong phạm vị nghiên cứu có chiều dàì 5 km. Qúa trình thực địa kiểm tra đã quan sát được dấu vết của đứt gẫy này với khe hẻm kéo dài và vết lộ đới phá hủy ngay bên bờ phải hồ, cách đập khoảng 2 km

Các đứt gẫy bậc III gồm: đứt gẫy III1 nằm phía trái sông Tranh, cách đập 2 km, cắt qua tập 3 của đất đá hệ tầng Khâm Đức, kéo dài 11 km trong khu vực nghiên cứu; đứt gẫy III2 nằm ở bờ phải sông Tranh cách đập 2 km, trung tâm vùng nghiên cứu và kéo dài 6 km trong phạm vi khu vực nghiên cứu; đứt gẫy III3 ở phía nam vùng nghiên cứu, dài 9 km và đóng vai trò ranh giới tập 1, tập 2 của hệ tầng Khâm Đức; đứt gẫy III4 nằm trong đới cấu trức Ngọc Linh, là ranh giới của hệ tầng Sông Re và hệ tầng Tắc pỏ, trong phạm vi nghiên cứu dài 5,5 km. Ngoài ra, còn một số đứt gẫy bậc IV cắt qua 2 vai đập, khu đập phụ, tràn và tuyến năng lượng, có chiều rộng đới phá hủy 0.5-2 m và đới ảnh hưởng 5-10 m.

 Hệ thống đứt gẫy Tây Bắc – Đông Nam khá phát triển trong vùng nghiên cứu và chủ yếu là đứt gẫy bậc IV, có chiều rộng đới phá hủy 0.5-2 m, đới ảnh hưởng hàng chục mét, chiều dài hàng trăm đến hàng nghìn mét. Các đứt gẫy bậc IV hầu hết là đứt gẫy thuận, mang tính trượt bằng phải hoặc trái, có biên độ dịch chuyển từ vài mét đến vài chục mét.

 

 

2- Khái quát về nghiên cứu động đất khu vực nghiên cứu:

Căn cứ Báo cáo Đánh giá độ nguy hiểm động đất khu vực công trình thủy điện sông Tranh 2 phục vụ lập báo cáo nghiên cứu khả thi và Đánh giá động đất trong Báo cáo nghiên cứu địa chất cho Thiết kế kỹ thuật giai đoạn 2 thì khu vực nghiên cứu có mức độ động đất không lớn. Theo tài liệu của Trung tâm địa chấn quốc tế (ISC) Thì động đất trong khu vực được ghi chép bắt đầu từ năm 1917. Theo tài liệu quan trắc của mạng lưới trạm địa chấn Việt Nam thì các rung động địa chấn được ghi nhận từ năm 1957. Dưới đây là tài liệu động đất ở khu vực thủy điện sông Tranh 2 và lân cận.

  1. Nghiên cứu hiện tượng động đất kích thích

Thực tế xây dựng các công trình đập và hồ chứa cũng như các hoạt động khác gây sũng ướt đất đá đã làm tăng hoạt tính địa chấn, bao gồm cả tần số và cường độ của động đất. Hiện tượng động đất kích thích được ghi nhận đầu tiên tại công trình đập Guver và hồ chứa Mid Leyk Colorado (Mỹ) được xây dựng năm 1937. Sau này đã xuất hiện tại nhiều công trình xây dựng đập và hồ chứa khác nên chính phủ một số nước đã đề nghị Ban thư ký UNESCO tổ chức nhóm chuyên gia để nghiên cứu vấn đề này và đề xuất các biện pháp cần thiết. Khi phân tích các tài liệu, nhóm công tác đã có nhận xét, thực tế khi tích nước vào các hồ chứa có nhiều trường hợp đã gây nên động đất. Tuy nhiên một số hồ khác lại không xẩy ra các hiện tượng động đất kích thích /4 /. Theo các tài liệu thống kê công bố /3 /, đến năm 2002 đã có 4 trận động đất kích thích liên quan đến xây dựng đập và hồ chứa xẩy ra với cường độ 6.0 độ richter trở lên; 10 trận động đất từ 5.0-5.9; 28 trận động đất có cường độ từ 4.0-4.9 và 53 trận có cường độ <4.0 độ . Thời gian xẩy ra động đất kích thích thường rơi vào thời kỳ 2-3 năm đầu tích nước hồ. Tuy nhiên cũng có trường hợp thời gian này kéo dài hơn như hồ Aswoan Ai Cập sau khi tích nước năm 1964 và đến năm 1981, tức 17 năm sau xảy ra động đất 5.6 độ. Hồ chứa nước Koyna An độ xảy ra động đất kích thích 6.3 độ sau 5 năm tích nước và tiếp tục xảy ra các trận động đất kích thích có cường độ đáng kể sau 30 năm. Các yếu tố chiều cao cột nước, dung tích hồ cũng như diện tích mặt thoáng đều có liên quan đến khả năng xảy ra động đất kích thích. Theo giáo sư P.Rotê (Pháp) thì cột nước trong hồ chứa đóng vai trò quan trọng hơn so với dung tích hồ. Xét về bản chất, nguyên nhân gây động đất kích thích sau khi xây dựng đập và tích nước vào hồ chứa là do 2 yếu tố chủ yếu:

– Do trọng lượng cột nước cao trên diện tích hồ rộng lớn đã tác động vào các cấu trúc đất đá dưới sâu, làm tăng trạng thái ứng suất tự nhiên đã được tích tụ đến gần trạng thái giới hạn trong các khối đá, vượt quá khả năng độ bền của chúng, gây dịch chuyển và phát sinh các chấn động địa chấn. Thường khi hồ chứa có cột nước từ 100 m trở lên có nhiều khả năng xảy ra động đất kích thích.

– Do nước thấm sâu vào đới dập vỡ của các đứt gẫy dưới lòng hồ, làm tăng áp lực nước lỗ rỗng và giảm áp lực hữu hiệu trong đới dập vỡ của đứt gẫy, dẫn đến giảm khả năng kháng cắt của đất đá. Ngoài ra, sự tẩm ướt đất đá ở đới dập vỡ còn làm giảm các chỉ tiêu sức kháng cắt của chúng, đặc biệt là giảm chỉ tiêu lực dính.  Kết quả là làm cho sự tích tụ ứng suất trong đới đứt gẫy vượt quá giới hạn độ bền, làm dịch chuyển các khối đá, giải phóng năng lượng tích tụ và gây nên các chấn động địa chấn. Yếu tố này có thể gây nên động đất kích thích ngay cả khi hồ chứa nước có cột nước dâng không lớn và chỉ có tác động khi tồn tại các con đường cho nước hồ vận động xuống sâu để tẩm ướt đất đá.

Vai trò tác động gây động đất kích thích của 2 yếu tố này tùy thuộc vào đặc điểm cấu trúc địa chất cụ thể. Có thể hiện tượng động đất kích thích chỉ xẩy ra do một trong 2 yếu tố gây nên, có thể do tác động đồng thời của cả 2 yếu tố. Tùy thuộc quan hệ tác động của 2 yếu tố này mà có thể quyết định đến các đặc điểm tần suất và diễn biến cũng như cường độ của các trận động đất kích thích khác nhau.

Tuy nhiên, có tác giả còn cho rằng /4 /, một số trường hợp động đất kích thích có thể  liên quan đến sự phá vỡ cân bằng giữa áp lực bên trong của nước dưới đất quá nhiệt dưới sâu và áp lực của các khối đất đá nằm trên dọc theo các phá hủy kiến tạo.

Nhìn chung, động đất kích thích cũng chỉ có thể xảy ra trong những điều kiện địa chất nhất định như: phát triển các hệ thống đứt gẫy lớn có khả năng sinh chấn; đá bị phân cắt thành các khối có khả năng dịch chuyển và đặc biệt là tồn tại các đới đá dập vỡ để nước hồ có thể thấm xuống sâu.

Liên quan đến chiều cao cột nước có thể nhận thấy qua trường hợp công trình Hồ chứa nước Koyna được xây dựng trên cao nguyên núi lửa, có lớp Bazan dày tới 2000 m. Trước khi xây dựng hồ chứa, vùng này được coi là có địa chấn yếu. Hồ có dung tích 2.8 km3 . Năm 1963 tích nước đến 72m đã ghi được các chấn động 5-6 độ richte. Đến năm 1967 sau thời gian tích nước đến mức thiết kế, có 2 trận động đất kế tiếp nhau và trận sau có cường độ 6.4 độ richte.

Một ví dụ nữa cho thấy vai trò của chiều cao cột nước là hồ chứa nước xây dựng trên sông Vayon (Italia). Đập Vayon cao 265.2m với hồ chứa có dung tích 169 triệu m3. Cấu  trúc địa chất đáy hồ có đứt gẫy thuận phân cách hai tầng. Phần đông là trầm tích dạng nhịp và trầm tích đề tứ nguồn gốc hồ và phần tây là đá vôi Jura dạng khối. Năm 1960 hồ tích nước đến cao trình 650 m đã gây ra loạt chấn động ngầm đầu tiên. Năm 1961 các chấn động gần như ngừng hẳn cùng với sự hạ thấp mực nước hồ. Năm 1962 lại tiếp tục tích nước vào hồ đến cao độ 645, rồi tăng đến cao độ 700 m và đã xảy ra một loạt chấn động rất lớn. Năm 1963 khi mực nước hạ thấp không còn xảy ra chấn động nữa. Lần thứ ba mực nước dâng lên vượt quá cao độ 700 m và lại xảy ra các rung chấn. Dưới đây là biểu đồ biến đổi mực nước hồ Vayont liên quan đến hoạt động địa chấn:

Đập Guver xây dựng năm 1937 trên sông Colorado (Mỹ) tạo nên hồ chứa Leyk Mid có dung tích 37 tỷ m3 nước. Đập bê tông có kiểu vòm – trọng lực, cao 222m, dài 370m. Đập và hồ chứa đều phân bố trên tầng tuf dày dạng dăm kết của phun trào Andezit xen các thấu kính tuf núi lửa không gắn kết. Trước khi xây dựng hồ chứa thì khu vực này không có hoạt động địa chấn mạnh. Những rung động đầu tiên ghi nhận được trong tháng 10 năm 1936. Tháng 9 năm 1937, khi cột nước dâng 100m đã ghi nhận được chấn động đáng kể đầu tiên. Trên diện tích 8.000 km2, ghi nhận được hơn 600 chấn động có cường độ < 2 độ richter. Tháng 5 năm 1939, khi nước dâng đến mực nước thiết kế thì xuất hiện động đất có cường độ 5 độ, tiếp theo tháng 8 và 9 năm 1942 có các trận động đất 4 độ. Theo tài liệu quan trắc, từ 1939 đến 1951 đã thiết lập được mối quan hệ giữa số chấn động ngầm và dao động mực nước: tháng 6-7 mực nước hồ cao nhất có số rung chấn nhiều nhất và ít nhất vào tháng 3 khi nước hồ thấp nhất.

Tác dụng tẩm ướt đất đá gây động đất kích thích đặc trưng là khi khoan hố khoan sâu để chôn lấp chất thải tại thành phố Denvera (Mỹ). Từ trên xuống độ sâu 3633 m là đá trầm tích, tiếp đến độ sâu 3663 m là đá gnei và granit trước Cambri. Trước đây vùng này được xem là không có địa chấn, chỉ ghi được một trận động đất nhỏ năm 1882. Từ 1909 đến 1962 không quan trắc được một rung chấn đáng kể nào. Động đất chỉ bắt đầu  từ tháng 4 năm 1962 sau 1 tháng bơm nén nước thải xuống lỗ khoan. Từ tháng 4 năm 1962 đến tháng 1 năm 1965 đã ghi được 700 chấn động ngầm có cường độ vượt 4.3 độ.

Nhiều trường hợp động đất kích thích xảy ra khi cột nước trong hồ không lớn và liên quan đến sự tẩm ướt đất đá như: hồ chứa Marathon (HyLạp) có đập cao 67 m có động đất kích thích đạt cường độ 5.7; Hồ Camarrillas (Tây Ban Nha) có đập cao 49 m và động đất kích thích đạt 4.1; Shenwo (Trung Quốc) có đập cao 50 m đạt cường độ động đất kích thích 4.8.

  1. Đánh giá động đất kích thích khu vực thủy điện Sông Tranh 2

Thủy điện Sông Tranh 2 bắt đầu tích nước từ 29 tháng 11 năm 2010 và đến tháng 2 năm 2011 thì đạt cao trình 158 m. Từ 13 tháng 10 năm 2011 đến ngày 3 tháng 11 năm 2011, mực nước hồ được nâng đến cao trình MNTKBT là 175m và được giữ liên tục trong 3 tháng, sau đó hạ dần đến cao trình MNC là 140 m vào ngày 22 tháng 6 năm 2012. Rung chấn đầu tiên với cường độ thấp quan trắc được vào ngày 24 tháng 12 năm 2011, tức là sau gần 1 tháng tích nước, trước khi đạt cao trình mực nước dâng 158 m. Liên tục đến ngày 2 tháng 9 năm 2012 xảy ra 41 lần rung chấn với cường độ chủ yếu trên dưới 3 độ richter. Từ ngày 3 tháng 9 năm 2012 đến  ngày 25 tháng 10 năm 2012 đã liên tiếp xảy ra 27 lần rung chấn, đặc biệt có các trận ngày 3 tháng 9 đạt 4.2 độ, ngày 23 tháng 10 đạt 4.1 độ và lớn nhất là ngày 22 tháng 10 đạt 4.6 độ với gia tốc nền đo được là 106,82 cm/s2. Ngày 15 tháng 10 năm 2012 xẩy ra trận động đất lớn nhất với cường độ 4.7 độ richter, sau đó các ngày 9/12 xảy ra trận 3.9 độ; 28/12/2012 là 4 độ, ngày 7/3/2013 là 3.6 độ, ngày 7/4/2013 là 3.8 độ, ngày 25/11/2013 có rung nhẹ  và đo được 2.3 độ và ngày 12 tháng 1 năm 2014 xảy ra trận động đất với cường độ yếu 2,6 độ richter. Ngoài ra, các rung chấn nhẹ xẩy ra khá nhiều. Mỗi lần xảy ra rung chấn, theo mô tả đều kèm theo các tiếng nổ ngầm trong lòng đất Như vậy, tình hình động đất kích thích xẩy ra tại Thủy điện sông Tranh 2 với gần hàng trăm trận động đất có cường độ khác nhau xảy ra liên tục trong thời gian qua đã cho thấy tính chất đặc biệt tại công trình thủy điện này, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu để đưa ra những đánh giá khách quan nhằm xác định hướng xử lý vấn đề đã gây nhiều nhức nhối trong dư luận xã hội cũng như trong giới khoa học Việt nam.

Công trình thủy điện Sông Tranh 2

Từ kết quả nghiên cứu hệ thống đứt gẫy phát triển trong khu vực lòng hồ, đặc biệt là kết quả khảo sát thực tế tại khu vực xây dựng đập và vùng hồ, có thể nói đứt gẫy bậc II Hưng Nhượng-Tà Vi là nguồn sinh chấn chủ yếu duy nhất gây nên những rung chấn trong suốt thời gian qua.. Ngoài ra, các đứt gấy bậc III có cùng phương á kinh tuyến trong phạm vi lòng hồ và các đứt gẫy bậc IV theo phương tây Bắc-Đông Nam đã góp phần làm phân cắt đất đá lòng hồ. Theo mô tả và quan sát thực tế cho thấy, đứt gẫy bậc II này có đới phá hủy rộng trên dưới 10 m, đới ảnh hưởng có thể tới hàng trăm mét. Cùng với các hệ thống đứt gẫy khác đã hình thành nên con đường thấm nước từ hồ chứa xuống sâu, gây nên các biến đổi trạng thái vật lý trong đới đứt gẫy như làm giảm độ bền của đá, làm gia tăng áp lực nước lỗ rỗng, giảm áp lực hữu hiệu trong đá và có thể tạo nên những hiệu ứng vật lý khác… Hệ quả là làm phá vỡ cân bằng trạng thái ứng suất, gây dịch chuyển các khối đá và làm phát sinh địa chấn.

Điều đáng chú ý là trong suốt thời gian qua, mặc dù nước hồ đang ở mực nước chết, nghĩa là cột nước nơi sâu nhất cũng chỉ đạt khoảng từ 50 đến 55 m, nhưng các trận động đất có cường độ lớn nhất liên tiếp vẫn xảy ra. Điều này cho thấy yếu tố tác động của nước thấm từ đáy hồ xuống sâu dọc theo đứt gẫy đóng vai trò chính so với tác động của chiều cao cột nước trong việc gây nên động đất kích thích tại đây. Theo báo cáo tại Hội thảo của Hội Địa chất công trình và Môi trường Việt Nam tháng 11 năm 2012, trên cơ sở số liệu quan trắc các rung chấn tại Thủy điện Sông Trang 2,  chúng tôi đã đưa ra đánh giá: “nhiều khả năng cường độ 4.6 độ richter diễn ra ngày 22 tháng 10 vừa qua đã tiến gần tới đỉnh cường độ của động đất kích thích. Bởi vậy việc nâng mực nước hồ đến cao độ mực nước thiết kế thêm 35 m nữa sẽ không làm gia tăng nhiều cường độ động đất kích thích. Sau khi đạt đỉnh, theo quy luật chung, cường độ động đất kích thích sẽ giảm và tần suất xuất hiện sẽ thưa dần và gần như đạt trạng thái bình ổn”. Đến nay, sau một năm kể từ khi đưa ra nhận định trên, diễn biến động đất kích thích xảy ra gần như đã đúng với những đánh giá trước đây. Một yếu tố nữa để chúng ta có nhận định cường độ động đất kích thích tại thủy điện Sông Tranh 2 không lớn là quy mô đứt gẫy bậc II không lớn, diện tích mặt hồ cũng như dung tích hồ nhỏ nên cũng không có tiền đề để phát sinh động đất có cường độ lớn. Vấn đề này có thể được làm sáng tỏ thêm khi chúng ta phân tích, so sánh với số liệu thống kê các trường hợp công trình đập và hồ chứa phát sinh động đất kích thích trên thế giới, có các thông số tương tự như công trình thủy điện Sông Tranh 2 (cột nước 95 m, dung tích hồ 700 triệu m3)

Đối với các trận động đất có cường độ dưới 4.0 độ có tỷ lệ (53/95), chiếm 55.79 %.

Như vậy, tỷ lệ động đất kích thích có cường độ < 5.0 là 85.26 %; đối với động đất có cường độ 5.0-5.9 tỷ lệ này là 10.53% và thấp nhất là động đất có cường độ trên 6 độ là 4.24 %. Phân tích những số liệu thống kê này, căn cứ các thông số của đập và hồ Sông Tranh 2 cũng như dãy số liệu quan trắc thủy điện Sông Tranh 2 để chúng ta có cơ sở hơn trong việc dự báo cường độ động đất kích thích cực đại xẩy ra trong thời gian tới.

Kết luận:

1.Khu vực xây dựng đập và hồ chứa Thủy điện sông Tranh 2 là nơi hội tụ đủ tất cả các yếu tố gây động đất kích thích với nguồn sinh chấn là đứt gẫy bậc II Hưng Nhượng – Tà Vi. Động đất xảy ra tại thủy điện Sông Tranh 2 là động đất kích thích liên quan đến việc tích nước của hồ chứa.

  1. Tác động gây động đất kích thích chủ yếu là do yếu tố nước từ đáy hồ thấm xuống theo đới dập vỡ của đứt gẫy bậc II, gây nên những biến đổi vật lý trong đới đứt gẫy. Yếu tố gia tải của cột nước hồ, làm thay đổi trạng thái vật lý tại đới đứt gẫy và giải phóng năng lượng, gây nên các chấn động địa chấn không đóng vai trò chủ đạo. Cơ chế phát sinh của động đất kích thích thủy điên Sông Tranh 2 có những dấu hiệu cho thấy không giống với những giải thích thông thường và sẽ được đề cập trong một nghiên cứu khác.
  2. Căn cứ các đánh giá cho thấy, động đất kích thích tại Thủy điện sông Tranh 2 xảy ra ngày 15 tháng 11 năm 2012 với cường độ 4.7 độ richter có thể đã đạt đỉnh và đang có xu hướng trở về trạng thái ổn định. Việc xuất hiện những rung chấn nhỏ vẫn có thể tiếp tục xẩy ra trong một thời gian nữa. Tuy nhiên, tần suất xuất hiện các rung chấn sẽ ít hơn trước đây nhiều. Thời gian bình ổn có thể kéo dài trong khỏang 3-5 năm tính từ khi tích nước hồ.

 

Tài liệu tham khảo:

  1. Tài liệu khảo sát ĐCCT giai đoạn thiết kế kỹ thuật Thủy điện Sông Tranh 2 do Tổng công ty Tư vấn Thiết kế Thủy điện I lập;
  2. Tài liệu quan trắc động đất tại Thủy điện Sông Tranh 2 do bên A cung cấp và theo dõi qua nguồn mạng.
  3. Các bài viết liên quan đến động đất kích thích theo nguồn mạng: http://tiasang.com.vn; http://tonghoidiachat.vn.
  4. D. Lomtadze. Injenhernaia geodinamika, “nhedra”, Leningradskaia otdelenhie, 1977

 

TÓM TẮT

Bài báo đã nêu đặc điểm cấu trúc địa chất khu vực xây dựng thủy điện Sông Tranh 2, khái quát tình hình xảy ra động đất trong khu vực cũng như nêu lên diễn biến của động đất xảy ra tại thủy điện Sông Tranh 2 kể từ khi tích nước. Trên cơ sở phân tích các điều kiện về địa chất, diễn biến của động đất cũng như kết quả thống kê các trận động đất kích thích đã xảy ra trên thế giới, tác giả bài báo đã đi đến kết luận: động đất xảy ra tại thủy điện Sông Tranh 2 là động đất kích thích liên quan chủ yếu với yếu tố thấm nước qua đứt gẫy bậc 2 và đưa ra dự báo diễn biến cũng như cường độ của động đất xảy ra tại đây.

 

Summary

The article has presented the characteristics of geology structure in Tranh river 2 hydro-power plant area, and the overview about the earthquake has happened as well as its process in the area from accumulating water. Based on the analysis of geological conditions, seimic processes and some statistical results from stimulating earthquake has occured in the world, the author concluded: the quake in the Tranh river 2 area is stimulating earthquake, it mainly relates to the permeability of water through the fault zone level 2 and predicts the developing and magnitude of earthquake there.

Giếng nước phun trào sau động đất tại KomTum

Vụ giếng nước Gia Lai bỗng dưng phun trào sau động đất: Kiến nghị lấy mẫu nước, khí để kiểm tra

Sau trận động đất lớn ở Kon Tum, một giếng khoan ở Gia Lai vốn trước đó đào không có nước, nay đã phun nước lên mặt đất.

Nước phun lên khỏi mặt đất

Ngày 31-7, ông Rơ Mah Hêng, Chủ tịch UBND xã Ia Kly (huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai), cho biết đã báo cáo lên huyện về hiện tượng lạ giếng khoan của hộ Đàm Xuân Hòa (ngụ làng Klã, xã Ia Kly) bất ngờ phun nước lên mặt đất.

Theo đó, lúc 12 giờ ngày 30-7, tại giếng khoan của ông Hòa, mạch nước ngầm phun lên khỏi mặt đất, tạo thành cột cao hơn 10 mét. Áp lực nước rất mạnh, đến nay không có biểu hiện giảm.

Bước đầu, hộ ông Hòa khai, đây là giếng nước cũ, trước đã khoan 1 lần nhưng không có nước. Tuy nhiên, sau dư chấn trận động đất tại tỉnh Kon Tum vào ngày 28-7, giếng nước có hiện tượng xì khí, gia đình kiểm tra và phát hiện sự việc trên.

Hiện trường vụ việc

Tại hiện trường, đến chiều ngày 31-7, giếng khoan vẫn đang phun nước lên mặt đất với độ cao khoảng 30m. Nước phun ra từ giếng khoan hơi đục, không có mùi vị gì bất thường. Khu vực này đã được căng dây cảnh báo.

Chiều ngày 31-7, ông Đinh Văn Dũng, Bí thư Huyện ủy Chư Prông, tỉnh Gia Lai cho biết, đã nắm thông tin giếng khoan của dân bất ngờ phun nước.

Theo ông Dũng, trận động đất lớn ở Kon Plông, tỉnh Kon Tum xảy ra trưa ngày 28-7, nhưng 2 ngày sau giếng nước mới phun trào. Vì thế, chưa đủ cơ sở để khẳng định việc giếng khoan bỗng dưng phun nước là do dư chấn động đất gây ra.

Liên quan đến vụ việc, nhằm tránh tình trạng người dân hiếu kỳ kéo đến giếng khoan phun nước, Huyện ủy Chư Prông đã chỉ đạo Đảng ủy xã Ia Kly có biện pháp đảm bảo an ninh trật tự.

Bên cạnh đó, Huyện ủy đã chỉ đạo UBND huyện báo cáo UBND tỉnh để có hướng cử đoàn đánh giá nguyên nhân; đồng thời lấy mẫu nước, khí được phun lên từ giếng khoan để giám định, kiểm tra nhằm xác định các chất, thành phần bên trong, xem có gây ảnh hưởng gì đến sức khỏe, môi trường hay không.

Nguồn: PV. Hữu Phúc – Báo điện tử: sggp.org.vn

https://www.sggp.org.vn/vu-gieng-nuoc-gia-lai-bong-dung-phun-trao-sau-dong-dat-kien-nghi-lay-mau-nuoc-khi-de-kiem-tra-post751900.html

Lễ công bố Quyết định Công nhận Hiệu trưởng Trường Đại học Mỏ – Địa chất

Ngày 21/6/2024 tại Hội trường 300, Trường Đại học Mỏ – Địa chất đã trang trọng tổ chức Lễ công bố Quyết định của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, công nhận chức danh Hiệu trưởng Trường Đại học Mỏ – Địa chất (HUMG) đối với GS.TS Trần Thanh Hải (Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty CODECO) theo nhiệm kỳ 2020 – 2025 của Hội đồng Trường.

(Quang cảnh buổi lễ Công bố Quyết định Công nhận Hiệu trưởng Trường Đại học Mỏ - Địa chất)(Quang cảnh buổi lễ Công bố Quyết định Công nhận Hiệu trưởng Trường Đại học Mỏ – Địa chất)

Tham dự buổi lễ, về phía các Bộ, Ngành, Cơ quan trung ương có: Đ/c Hoàng Minh Sơn -Thứ Trưởng bộ Giáo dục và Đào tạo; Đ/c Vũ Thanh Mai – Phó trưởng ban Tuyên giáo Trung ương; Đ/c Phạm Văn Sơn – Chuyên viên Cao cấp Văn phòng Chính phủ; Về phía Bộ Giáo dục và Đào tạo còn có Đ/c Nguyễn Thu Thủy, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học; Đ/c Nguyễn Anh Dũng – Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học; Đ/c Cảnh Chí Dũng, Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Đ/c Phạm Quang Hưng, Cục trưởng, cục Hợp tác quốc tế; Đ/c Trần Văn Thịnh – Phó Chánh VP Ban cán sự Đảng, Đ/c Đinh Minh Tùng – Phó vụ trưởng Vụ Kế hoạch – Tài chính; Đ/c Phạm Văn Sinh – Phó vụ trưởng vụ Cơ sở vật chất, Đ/c Lê Thị Mai Oanh – Phó chủ tịch Công đoàn giáo dục Việt Nam.

Về phía Đảng ủy Khối các trường Đại học, Cao đẳng Hà Nội có: Đ/c Nguyễn Thanh Sơn, Thành ủy viên, Bí thư Đảng ủy khối các trường ĐH, CĐ Hà Nội,

Về phía các cơ quan, đơn vị ngoài trường có Ông Nguyễn Hồng Hà – Lãnh sự Tổng lãnh sự quán Canada tại Việt Nam, Đại tá Bùi Ngọc Tuyên – Chính ủy Bộ Tư lệnh Binh chủng Pháo Binh.

Cùng đại diện lãnh đạo các Bộ, Ban, Ngành cơ quan trung ương, đại diện lãnh đạo các Tổng cục, các Cục, Vụ, Viện, các đồng chí đại diện tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam, Tổng Công ty Đông Bắc, các Công ty, Doanh nghiệp đối tác của Nhà trường, các đồng chí đại diện các ban đảng thuộc Đảng ủy Khối các Trường Đại học, Cao đẳng Hà Nội, lãnh đạo Phòng PA03 – CA Thành phố Hà Nội, các đồng chí lãnh đạo các học viện, trường đại học, cao đẳng có quan hệ mật thiết với Nhà trường, đại diện văn phòng Hội đồng Giáo sư Nhà nước; các đồng chí lãnh đạo các Hiệp hội, các Hội nghề nghiệp, đại diện các đại sứ quán Ba Lan, Lào, Campuchia, lãnh sự quán Canada, Australia, Hội đồng Anh, Lãnh đạo quận Bắc Từ Liêm, Lãnh đạo các phường Đức Thắng, Cổ Nhuế 2, Xuân Đỉnh.., đại diện lãnh đạo Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Đại học quốc gia Hà Nội, Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục đại học Vinh.

Về phía Trường Đại học Mỏ – Địa chất có: Đ/c Trần Xuân Trường – Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Trường, Đ/c Trần Thanh Hải – Hiệu Trưởng Nhà trường, Đ/c Triệu Hùng Trường – Phó Hiệu trưởng Nhà trường, cùng các Thầy nguyên Bí thư Đảng ủy, nguyên Hiệu trưởng, nguyên Phó Hiệu trưởng Nhà trường qua các thời kỳ; các đồng chí trong Đảng ủy, Hội đồng trường, lãnh đạo các tổ chức: Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh, Hội Cựu giáo chức, lãnh đạo các đơn vị, các cựu sinh viên, sinh viên, cán bộ viên chức và người lao động toàn trường đã tới dự.

Tại buổi lễ, PGS. TS Hoàng Minh Sơn, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trao Quyết định Công nhận GS.TS Trần Thanh Hải giữ chức vụ Hiệu trưởng Trường Đại học Mỏ – Địa chất nhiệm kỳ 2020 – 2025 theo nhiệm kỳ của Hội đồng trường.

(PGS. TS Hoàng Minh Sơn, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT đã trao Quyết định Công nhận GS.TS Trần Thanh Hải giữ chức vụ Hiệu trưởng Trường Đại học Mỏ – Địa chất)

Thay mặt lãnh đạo Bộ GD&ĐT, Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn đã gửi những lời chúc mừng tốt đẹp nhất tới tập thể Nhà trường, các em học viên, sinh viên và đặc biệt là GS.TS Trần Thanh Hải. Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn cũng ghi nhận và đánh giá cao vai trò tiên phong trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực Khoa học Trái đất, Năng lượng, Tài nguyên, Môi trường và các lĩnh vực khác của Trường Đại học Mỏ – Địa chất.

Để Trường Đại học Mỏ – Địa chất có sự phát triển nhanh và bền vững trong thời gian tới, Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn đề nghị GS.TS Trần Thanh Hải – Hiệu trưởng và tập thể lãnh đạo Trường Đại học Mỏ – Địa chất cần: xây dựng và gìn giữ khối đoàn kết thống nhất; rà soát, bổ sung, điều chỉnh và hoàn thiện chiến lược phát triển Trường; hoàn thiện cơ cấu tổ chức, đổi mới quản trị đại học, đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ trong quản lý và quản trị hoạt động của Trường; Có chính sách phát triển đội ngũ giảng viên, cán bộ mạnh về chất lượng và tâm huyết với sự phát triển của Trường, có giải pháp duy trì và nâng cao đồi sống vật chất và tinh thần của cán bộ giảng viên; đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong đào tạo, nghiên cứu khoa học, các hoạt động kết nối hợp tác với doanh nghiệp; cải thiện và nâng cao chất lượng cơ sở vật chất của Nhà trường; xác định các ngành là thế mạnh và có truyền thống để đầu tư phát triển, xây dựng thương hiệu, vị thế của Trường.

Thứ trưởng cũng bày tỏ tin tưởng rằng, GS.TS Trần Thanh Hải sẽ phát huy được trí tuệ, kinh nghiệm, tâm huyết của mình để cùng với tập thể lãnh đạo, tập thể sư phạm Nhà trường hoàn thành tốt chiến lược, kế hoạch phát triển, đưa trường Đại học Mỏ – Địa chất vượt qua các khó khăn tiếp tục phát triển nhanh và bền vững, đóng góp cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, xứng đáng với truyền thống gần 60 năm xây dựng và phát triển của Nhà trường.

(PGS.TS Hoàng Minh Sơn – Thứ Trưởng Bộ GD&ĐT phát biểu tại buổi lễ)

Phát biểu nhận nhiệm vụ tại buổi lễ, GS.TS Trần Thanh Hải – Hiệu trưởng Trường Đại học Mỏ – Địa chất đã bày tỏ: Ông cảm thấy vô cùng vinh dự khi được sự tin tưởng và kỳ vọng của Lãnh đạo bộ Giáo dục và Đào tạo, của Đảng ủy Khối các trường Đại học Cao đẳng Hà Nội, của tập thể cán bộ, giảng viên, học viên, nghiên cứu sinh của các bạn đồng nghiệp và các đối tác của Nhà trường. Ông cũng gửi lời tri ân sâu sắc tới các đồng chí lãnh đạo tiền nhiệm, các thế hệ thầy và trò các cán bộ viên chức của Nhà trường về sự ủng hộ cho cá nhân trong nhiệm kỳ vừa qua và dành cho Ông tự tín nhiệm trong việc tiếp tục nhiệm vụ Hiệu trưởng của mình.

Thầy Hiệu trưởng cũng cho rằng, ông “luôn ý thức về trách nhiệm của mình với quá khứ,trọng trách lớn lao với hiện tại và tương lai trong việc đảm nhiệm những nhiệm vụ mới trong lãnh đạo quản lý, xây dựng và khẳng định vị thế của Trường Đại học Mỏ – Địa chất trong nền giáo dục và khoa học của Việt Nam.” Ông sẽ cùng Đảng ủy, hội đồng trường, tiếp tục xác định tầm nhìn mới, rộng mở hơn để đưa Nhà trường ngày càng phát triển.

Theo đó, Nhà trường sẽ đổi mới phong cách quản trị theo hướng hiện đại, sáng tạo, thoát ra khỏi những tư duy lạc hậu, giải phóng tư duy để dẫn dắt và hành động nhằm tạo nên sự khác biệt. Một trong các nguồn tài sản vô giá của nhà trường là đội ngũ cán bộ. Do đó, nhà trường sẽ tiếp tục tạo ra môi trường bình đẳng về học thuật và văn hóa để mọi người có cơ hội phát triển. Thầy Hiệu trưởng cam kết sẽ cùng tập thể nhà trường phát huy mọi khả năng để tạo ra những nguồn lực mới cho việc nâng cấp cơ sở vật chất nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong đào tạo và nghiên cứu khoa học, đặc biệt là từng bước xây dựng khu đô thị đại học của trường trở thành một cơ ngơi mới, khang trang và hiện đại, tạo nền tảng để Trường Đại học Mỏ – Địa chất hiện thực hóa mục tiêu là một đại học hiện đại, đồng bộ định hướng nghiên cứu và hội nhập quốc tế.

Thầy Hiệu trưởng cũng luôn mong muốn nhận được sự ủng hộ của Đảng, Nhà nước, các Bộ Ngành, đặc biệt là lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đảng ủy Khối các trường ĐH&CĐ Hà Nội, của các đối tác các địa phương, các tổ chức và cá nhân, tạo mọi điều kiện thuận lợi về chính sách và nguồn lực cho sự phát triển của nhà trường giúp nhà trường vượt qua mọi thách thức phát triển lên tầm cao mới. Mong muốn nhận được sự ủng hộ của Đảng ủy, Hội đồng trường, tập thể Nhà trường, của các bạn đồng nghiệp để những ước vọng, mục tiêu và nhiệm vụ của Giáo sư được hiện thực hóa.

(GS.TS Trần Thanh Hải – Hiệu trưởng Trường ĐH Mỏ – Địa chất phát biểu nhận nhiệm vụ tại buổi lễ)

Tại buổi Lễ, GS.TS Trần Thanh Hải – Hiệu trưởng Trường Đại học Mỏ – Địa chất cũng đã đón nhận những bó hoa tươi thắm của các đồng chí lãnh đạo Bộ Giáo dục, Đảng ủy Khối các trường Đại học Cao đẳng Hà Nội, Hội đồng Giáo sư liên ngành Khoa học trái đất, Cụm thi đua số 5, Đảng ủy, Hội đồng Trường, Các đồng chí Nguyên lãnh đạo Nhà trường, Các tổ chức chính trị xã hội: Công đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên, Hội Cựu chiến binh, Hội cựu giáo chức, các cơ quan doanh nghiệp, gia đình, bạn bè đồng nghiệp và các thế hệ sinh viên, học viên chúc mừng Thầy Hiệu trưởng Nhà trường.

(GS.TS Trần Thanh Hải đón nhận lẵng hoa tươi thắm của các đồng chí lãnh đạo Bộ Giáo dục)

 

(GS.TS Trần Thanh Hải đón nhận lẵng hoa tươi thắm của Hội đồng Giáo sư liên ngành Khoa học trái đất)

(GS.TS Trần Thanh Hải đón nhận lẵng hoa tươi thắm của Đảng ủy, Hội đồng Trường)

(GS.TS Trần Thanh Hải đón nhận bó hoa hoa tươi thắm của gia đình)

(GS.TS Trần Thanh Hải đón nhận lẵng hoa tươi thắm của Công ty Codeco)

(Các vị đại biểu, các vị khách quý cùng lãnh đạo Nhà trường chụp ảnh lưu niệm)

                                                                             Nguồn: Phòng QHCC&DN, Trường ĐH Mỏ – Địa chất.

Đại hội Hội đồng thành viên Công ty năm 2023

   ĐẠI HỘI

HỘI ĐỒNG THÀNH VIÊN CÔNG TY NĂM 2023

 

Ngày 09 tháng 05 năm 2024, Hội đồng thành viên Công ty TNHH Tư vấn, Triển khai công nghệ và Xây dựng Mỏ-Địa chất tổ chức Đại hội thường niên năm 2023 tại phòng họp Từ Liêm, trường Đạị học Mỏ – Địa chất. Tham dự hội nghị có Ban Giám đốc, Ban Kiểm soát và các thành viên trong Hội đồng.

Sau phần giới thiệu chương trình hội nghị của PGS.TS. Trần Đình Kiên Giám đốc công ty, GS.TS Trần Thanh Hải – Chủ tịch Hội đồng thành viên đã chủ trì hội nghị. Đại hội đã nghe PGS.TS Lê Trọng Thắng – Phó giám đốc công ty, đại diện Ban Giám đốc đọc báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh năm 2023, phương hướng hoạt động và nhiệm vụ chủ yếu của năm 2024; Kế toán trưởng công ty Nguyễn Thị Lan đọc báo cáo về công tác tài chính của công ty và Trưởng Ban kiểm soát Lê Thị Hương Giang  đọc báo cáo về tình hình giám sát tài chính của công ty trong năm 2023.

PGS.TS Lê Trọng Thắng – Phó Giám đốc Công ty đọc báo cáo tại Đại hội

Kế toán trưởng công ty Nguyễn Thị Lan đọc báo cáo về tài chính tại Đại hội

Trưởng Ban kiểm soát công ty Lê Thị Hương Giang đọc báo cáo giám sát tại Đại hội

          Năm 2023 là năm thứ hai sau ba năm kéo dài của đại dịch Covid-19. Mặc dù tình hình kinh tế của đất nước vẫn còn những khó khăn nhất định, nhưng với sự nỗ lực, phấn đấu và sáng tạo trong công việc của toàn thể cán bộ công nhân viên toàn Công ty nên hoạt động sản xuất của công ty đã đạt được kết quả tốt đẹp. Doanh thu của công ty năm 2023 vượt mức chỉ tiêu đề ra trên 30% so với năm 2022. Công ty đã hoàn thành đóng nghĩa vụ cho Ngân sách Nhà nước và Nhà trường, đồng thời tích cực đóng góp cho các hoạt động vì cộng đồng theo phát động của Trường ĐH Mỏ – Địa chất như ủng hộ quỹ nghiên cứu khoa học, ủng hộ các chương trình thiện nguyện và quỹ cho sinh viên nghèo vượt khó …

Sau phát biểu đóng góp ý kiến về hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành viên Hội đồng thành viên, chủ tịch Hội đồng thành viên đã phát biểu kết luận và thông qua Nghị quyết của đại hội. Đại hội Hội đồng thành viên Công ty TNHH Tư vấn, Triển khai công nghệ và Xây dựng Mỏ – Địa chất năm 2023 đã thành công tốt đẹp.

 

Khoan giếng nước sinh hoạt có phải xin giấy phép?

Ông Thiện (Thanh Hoá) muốn khoan giếng khai thác nước sinh hoạt cá nhân, hộ gia đình trong phần đất của mình, vậy ông có phải xin phép xã hay huyện không?

Bộ Tài nguyên và Môi trường trả lời vấn đề này như sau:

Theo Khoản 1 Điều 44 Luật Tài nguyên nước năm 2012 quy định các trường hợp khai thác, sử dụng tài nguyên nước không phải xin phép gồm:

– Khai thác, sử dụng nước cho sinh hoạt của hộ gia đình;

– Khai thác, sử dụng nước với quy mô nhỏ cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ;

– Khai thác, sử dụng nước phục vụ các hoạt động văn hoá, tôn giáo, nghiên cứu khoa học;

– Khai thác, sử dụng nước cho phòng cháy, chữa cháy, ứng phó, khắc phục sự cố ô nhiễm, dịch bệnh và các trường hợp khẩn cấp khác theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp.hai thác, sử dụng nước cho phòng cháy, chữa cháy, ứng phó, khắc phục sự cố ô nhiễm, dịch bệnh và các trường hợp khẩn cấp khác theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp.

Theo Điểm c Khoản 1 Điều 1 Điều 17 Nghị định số 02/2023/NĐ-CP ngày 01/02/2023 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước và Khoản 2 Điều 44 Luật Tài nguyên nước thì khai thác, sử dụng nước cho sinh hoạt của hộ gia đình thì phải đăng ký trong trường hợp hợp khu vực khai thác nước dưới đất nằm trong danh mục vùng hạn chế khai thác nước dưới đất do UBND cấp tỉnh công bố hoặc ở các vùng mà mực nước đã bị suy giảm quá mức.

Theo Điểm a Khoản 2 Điều 17 Nghị định số 02/2023/NĐ-CP thì khai thác nước dưới đất có quy mô lớn hơn 10m3/ngày đêm trở lên phải có giấy phép.

Do đó, theo quy định nếu trường hợp khoan giếng khai thác nước sinh hoạt cá nhân hộ gia đình của ông Thiện mà có quy mô không vượt quá 10m3/ ngày đêm và không thuộc trường hợp nằm trong danh mục vùng hạn chế khai thác nước dưới đất do UBND tỉnh Thanh Hoá công bố và vùng có mực nước đã bị suy giảm quá mức thì không phải đăng ký, không phải xin cấp phép.

 Theo trang Thông tin Chính phủ.

Tung công nghệ làm “bốc hơi’ đá, Mỹ chuẩn bị khoan hố sâu nhất lịch sử: 500 độ C cũng chẳng là gì!

Thay vì dùng các mũi khoan cơ học có đầu kim loại thông thường, Mỹ sẽ dùng công nghệ chưa từng xuất hiện trên thế giới.

Độ sâu mà Quaise Energy hướng đến là 20.000 mét nơi đất đá có nhiệt độ lên đến 500 độ C. Độ sâu này có chiều dài gấp 2,26 lần so với đỉnh núi cao nhất thế giới Everest; và gấp 1,63 lần so với hố khoan nhân tạo hiện đang giữ kỷ lục sâu nhất hành tinh do Liên Xô thực hiện năm 1989 (tên là hố khoan siêu sâu Kola).

Các nhà khoa học cho biết, việc khoan sâu vào lõi Trái đất là điều vô cùng khó khăn và thách thức kỹ thuật. Bởi càng xuống sâu, nhiệt độ và các tầng đá càng cao, phức tạp. Đổi lại, mũi khoan xuống càng sâu, nhiệt độ có thể khai thác để sản xuất điện càng cao.

Vậy, Quaise Energy sẽ sử dụng công nghệ gì để mũi khoan của họ không bị mềm như cọng bún ở lõi Trái đất?

Công nghệ độc quyền “made in USA”

Thinkgeoenergy cho biết hôm 12/3, Quaise Energy đang phát triển một kỹ thuật mới sử dụng vi sóng công suất cao trong phạm vi milimet để làm bay hơi đá (gọi tắt là Khoan sóng milimet). Công nghệ này dựa trên hơn một thập kỷ nghiên cứu tại Viện MIT và thử nghiệm gần đây tại Phòng thí nghiệm quốc gia Oak Ridge, Mỹ.

Tung công nghệ làm

Hệ thống khoan sóng milimet của Quaise Energy. Nguồn: Quaise Energ

Khoan sóng milimet sử dụng chùm sóng năng lượng liên tục trong khoảng 30-300 gigahertz (sóng milimet) để làm tan chảy, bốc hơi và khoan xuyên qua các lớp đá cực cứng và nóng nằm sâu trong lớp vỏ Trái đất.

Giải thích thêm về công nghệ khoan sóng milimet độc quyền của Mỹ, Geoengineering cho biết, khoan sóng milimet là một loại khoan năng lượng trực tiếp được phát minh bởi Tiến sĩ Paul Woskov, Kỹ sư nghiên cứu cấp cao tại Trung tâm Khoa học và Hợp nhất Plasma của Viện Công nghệ Massachusetts.

Tung công nghệ làm &quot;bốc hơi' đá, Mỹ chuẩn bị khoan hố sâu nhất lịch sử: 500 độ C cũng chẳng là gì! - Ảnh 2.Con quay hồi chuyển tại Cơ sở nghiên cứu phản ứng tổng hợp Wendelstein 7-X của Viện Max Planck ở Greifswald, Đức. Nguồn: Geoengineering

Khoan sóng milimet là một công nghệ khoan tiên tiến và là sản phẩm phụ của nghiên cứu phản ứng tổng hợp hạt nhân, sử dụng năng lượng để khoan xuyên qua lớp vỏ Trái đất thay vì các mũi khoan cơ học có đầu kim loại thông thường.

Những sóng milimet này được tạo ra bằng cách sử dụng một con quay hồi chuyển. Con quay hồi chuyển là một loại ống chân không chùm tia điện tử hoặc tuyến tính tạo ra sóng điện từ ở phần sóng milimet của phổ điện từ.

Công nghệ khoan sóng milimet thay đổi “cuộc chơi” thế nào?

“Dưới chân chúng ta có rất nhiều nhiệt lượng, gấp 20 tỷ lần năng lượng mà thế giới sử dụng trong một năm”
                                                                                                                                 Tiến sĩ Paul Woskov

“Năng lượng địa nhiệt sâu là một nguồn dự trữ năng lượng khổng lồ, chỉ đứng sau phản ứng tổng hợp hạt nhân, sẵn có 24/7” – Tiến sĩ Paul Woskov – “Cha đẻ” của công nghệ khoan sóng milimet nhận định khi được MIT News hỏi về nguồn năng lượng địa nhiệt mà thế giới chưa phổ biến.

Kế hoạch của Quaise Energy là sử dụng công nghệ khoan sóng milimet của họ để khoan sâu hơn và nhanh hơn bất kỳ quốc gia trên thế giới từng khoan trước đây nhằm tiếp cận các hồ chứa địa nhiệt (lớp đá) cực nóng ở 500 độ C.

Quaise Energy ước tính rằng họ sẽ có thể khoan các lỗ khoan sâu từ 12 đến 20 km trong khoảng vài tháng (so với Dự án lỗ khoan siêu sâu Kola của Liên Xô đã khoan tới độ sâu hơn 12 km trong khoảng thời gian 22 năm).

Tung công nghệ làm Tiến sĩ Paul Woskov – người phát minh là công nghệ khoan sóng milimet. Ảnh: MIT News

Quaise Energy cũng đang có kế hoạch khoan các lỗ khoan siêu sâu này tại các nhà máy điện sử dụng nhiên liệu hóa thạch hiện có (như than, khí tự nhiên…) để sử dụng hiệu quả và tiết kiệm chi phí cơ sở hạ tầng hiện có, ví dụ: máy phát điện của nhà máy điện, tháp giải nhiệt, tòa nhà, đường dây truyền tải….

Các nhà khoa học ước tính rằng những nhà máy điện địa nhiệt siêu sâu này có thể sản xuất hàng terawatt năng lượng sạch trong vòng 100 năm.

Hơn hết, nếu công nghệ này được ứng dụng rộng rãi, khoan sóng milimet có tiềm năng tuyệt vời để giảm thiểu và đảo ngược Biến đổi khí hậu và Sự nóng lên toàn cầu.

Kế hoạch của Quaise Energy là nhằm thay thế các nhà máy điện chạy bằng nhiên liệu hóa thạch bằng các nhà máy điện chạy bằng năng lượng địa nhiệt siêu sâu, dự án này sẽ tạo ra một lượng lớn năng lượng có hàm lượng carbon rất thấp và giảm đáng kể lượng carbon dioxide đi vào khí quyển.

Công ty cho biết thêm, ngay khi đưa công nghệ mới này vào cuộc, họ có thể sản xuất điện ở quy mô terawatt (1 terawatt tương đương 1 tỷ tỷ watt). Đặc biệt, nguồn năng lượng không carbon này chỉ chiếm một vùng diện tích bằng 1% so với các công nghệ năng lượng tái tạo khác.

Những điều này cho thấy, việc đi đầu độc quyền công nghệ khoan sâu mang lại cho Mỹ những đặc quyền về năng lượng và hành trình phát triển không phát thải carbon – Đây là hai bài toán lớn mà nhiều quốc gia trên thế giới phải đối mặt trong bối cảnh nóng lên toàn cầu diễn ra mạnh mẽ.

Hành trình “đi vào lòng đất” trên thế giới

Trong nhiều thập kỷ, nhiều quốc gia đã cố gắng khoan vào lớp vỏ Trái đất để tiếp cận lớp phủ nhưng không thành công do nhiệt độ cực nóng ở các lỗ khoan sâu và các khối đá cực cứng nằm dưới áp suất sâu dưới lòng đất.

Tung công nghệ làm Càng khoan sâu, thách thức kỹ thuật càng lớn. Ảnh: Quaise Energy

Từ năm 1961 đến năm 1966, Dự án Mohole của Mỹ đã cố gắng khoan xuyên qua lớp vỏ ở Thái Bình Dương ngoài khơi bờ biển Mexico. Họ chỉ có thể đạt tới độ sâu 183 m.

Từ năm 1970 đến năm 1992, Dự án lỗ khoan siêu sâu Kola của Liên Xô đã đạt tới độ sâu kỷ lục 12,2 km nhưng chỉ có thể khoan khoảng một phần ba quãng đường xuyên qua lớp vỏ Trái đất. Năm 1990, Đức khởi xướng Chương trình khoan sâu lục địa Đức ở Bavaria nhằm cố gắng phá kỷ lục của Liên Xô nhưng chỉ có thể khoan tới độ sâu 9 km.

Mới đây, Trung Quốc cũng đã khoan được 10.000 mét tại hố khoan siêu sâu Shendi Ta’Ke-1 của họ (độ sâu thiết kế là 11.100 m) ở vùng nội địa của sa mạc Taklimakan trong bồn địa Tarim (thuộc Khu tự trị Tân Cương, phía tây bắc Trung Quốc). Ở độ sâu này, Shendi Ta’Ke-1 là hố khoan sâu nhất châu Á.

                                                                            Tham khảo: MIT News, Geoengineering, Thinkgeoene

Theo doisongphapluat.nguoiduatin.vn 

 

 

 

Tuần lễ Áo dài nhân dịp Ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10

Hòa chung trong không khí vui tươi, phấn khởi của phụ nữ cả nước, sáng ngày 20/10/2023, được sự đồng ý của Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Công đoàn Trường Đại học Mỏ – Địa chất, Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ, Ban Nữ công trường long trọng tổ chức Lễ mít tinh kỷ niệm 93 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và tuyên dương khen thưởng, nữ tiến sĩ nữ cán bộ đạt thành tích cao trong công tác nghiên cứu khoa học, giảng dạy, hành chính văn phòng, nữ sinh viên xuất sắc và Tổng kết phong trào Giỏi việc trường đảm việc nhà năm học 2022 – 2023.

Đến dự Lễ mít tinh có PGS.TS Trần Xuân Trường – Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng trường; PGS.TS Triệu Hùng Trường – Phó Hiệu trưởng, Trưởng ban Vì sự tiến bộ của Phụ nữ; PGS.TS Nguyễn Việt Hà – Chủ tịch Công đoàn Trường; ThS Hồ Quỳnh Anh – Phó Chủ tịch Công đoàn Trường; ThS Nguyễn Thanh Tuấn – Bí thư Đoàn Thanh niên Trường; TS Nguyễn Thanh Thủy – Trưởng Ban nữ công Trường cùng đại diện lãnh đạo các Phòng, Khoa, Ban và toàn thể các nữ cãn bộ viên chức và đại diện các bạn nữ sinh viên Nhà trường đã tới tham dự.

Tại buổi Lễ, các đại biểu đã được nghe TS Nguyễn Thanh Thủy – Trưởng ban Nữ công Trường tình bày Báo cáo tổng kết công tác nữ công Trường năm 2022 – 2023 và sơ kết phong trào “Giỏi việc trường Đảm việc nhà” trong nữ cán bộ viên chức Nhà trường. Theo đó, trong năm học 2022 – 2023, Ban nữ công Trường đã cùng với Công đoàn Trường chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích cho nữ cán bộ viên chức Nhà trường, Ban nữ công cũng đã tổ chức được nhiều hoạt động có ý nghĩa cho chị em như: Tuần lễ áo dài, các chương trình tham quan dã ngoại cho nữ cán bộ trường; trong năm học vừa qua HUMG đã có thêm 05 nữ nghiên cứu sinh bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ; 202 nữ cán bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong công tác giảng dạy và hành chính được đánh giá xếp loại chất lượng viên chức đạt loại A+; nhiều nữ cán bộ là chủ trì các công trình khoa học, có nhiều bài báo được đăng tải trên các tạp chị thuộc danh mục ISI và Scopus uy tín, bên cạnh đó các chị vẫn là những người mẹ, người phụ nữ đảm đang tháo vát nuôi con khỏe, dạy con ngoan của mỗi gia đình. Đối với các bạn nữ sinh đã có 03 gương mặt nữ sinh tiêu biểu đạt thành tích cao trong học tập và nghiên cứu khoa học. Để có được những kết quả đáng ghi nhận trên đây, là sự nỗ lực không biết mệt mỏi trên mọi lĩnh vực của những nữ cán bộ viên chức và các em nữ sinh viên Trường Đại học Mỏ – Địa chất.

Phát biểu chúc mừng đồng chí Phó Hiệu trưởng, Trưởng ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ, PGS. TS Triệu Hùng Trường đã ghi nhận và biểu dương những thành tích của tập thể nữ cán bộ viên chức và sinh viên Nhà trường: các chị em đều là những phụ nữ đầy nhiệt huyết, năng động trong công tác, trong nghiên cứu cũng như trong học tập, không ngừng trau dồi kiến thức, kỹ năng mềm, luôn có ý chí vươn lên khẳng định mình không hề “lép vế” với các đấng mày râu trong môi trường đào tạo kỹ thuật có phần khô khan và khó. Đồng chí Phó Hiệu trưởng cũng đã gửi lời chúc tới các chị em luôn vui tươi, xinh đẹp, trẻ khỏe, yêu đời, sống hết mình, cháy hết mình, biết yêu những gì mình đang có, khẳng định mình trong cuộc sống bằng lòng chân thành, vị tha, thủy chung, trí tuệ và yêu thương!

Thay mặt Lãnh đạo Nhà trường và các nam cán bộ viên chức, đồng chí Chủ tịch Hội đồng Trường, đồng chí Phó Hiệu trưởng và đồng chí Chủ tịch Công đoàn trường đã trao tặng bó hoa tươi thắm cho Trưởng ban nữ công – TS Nguyễn Thanh Thủy và đại diện các tổ trưởng nữ công của các đơn vị trong trường

Trong buổi Lễ mít tinh đầy ý nghĩa này, Trường Đại học Mỏ – Địa chất cũng đã biểu dương khen thưởng cho 01 tập thể 26 nữ cán bộ viên chức và sinh viên có thành tích cao trong công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học và hành chính văn phòng; nữ sinh viên đạt thành tich cao trong học tập, nghiên cứu khoa học và rèn luyện. Khen thưởng cho 140 nữ cán bộ đạt thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua “Giỏi việc trường – Đảm việc nhà” năm học 2022 – 2023.

Kết thúc buổi Lễ mít tinh, các đại biểu đã được xem 01 video clip ngắn về những hình ảnh đẹp mắt của các nữ cán bộ viên chức trong những tà áo dài truyền thống, hưởng ứng tuần lễ áo dài nhân kỷ niệm 93 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

 

Cùng nhìn ngắm vẻ đẹp của những nữ cán bộ Công ty và các nữ Giảng viên, cán bộ của Trường Mỏ – Địa chất trong tà áo dài dân tộc nhân dịp Tuần lễ áo dài này.